SKKN- Đề tài: Một số biện pháp rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ 3-4 tuổi – Tác giả: Nguyễn Thị Hải- Giáo viên Trường Mầm non Đại Hòa
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: – Hội đồng sáng kiến Trường Mầm Non Đại Hòa Tôi ghi tên dưới đây:
TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác (hoặc nơi thường trú) Chức danh Trình độ chuyên môn Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến
1 Nguyễn Thị Hải 20-11-1982 Trường MN Đại Hòa Đại học
Sư phạm mầm non 100%
Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số biện pháp rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ 3-4 tuổi ”
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Được áp dụng trong giáo dục mầm non.
3. Ngày sáng kiến được áp dụng thử: Từ tháng 9/2022
4. Mô tả bản chất của sáng kiến:
Như chúng ta đã biết, mục tiêu của giáo dục Mầm non là nuôi dạy, chăm sóc phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản; phát triển năng lực cá nhân, tính năng động, sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì giáo dục Mầm non là giai đoạn đầu tiên trong tiến trình giáo dục của một đời người, góp phần xây dựng nền tảng ban đầu của nhân cách con người. Trong việc giáo dục ở trường Mầm non có nội dung giáo dục vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ là một trong những nhiệm vụ giáo dục con người mới phát triển toàn diện. Nó hình thành cho trẻ tính cẩn thận, sạch sẽ không những thể hiện chấp hành những yêu cầu vệ sinh mà còn nói lên mức độ quan hệ của con người với nhau. Chính vì vậy, việc thực hiện các yêu cầu vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ, thể hiện sự tôn trọng những người xung quanh và người phục vụ. Bởi vậy trẻ cần được chăm sóc, nuôi dưỡng một cách đúng nghĩa, chăm sóc sức khoẻ trẻ thơ là công việc của toàn xã hội. Vì sức khoẻ là vốn quý nhất của con người, ngoài yếu tố di truyền, chăm sóc sức khoẻ, chế độ dinh dưỡng hợp lý thì phần lớn sức khoẻ phụ thuộc vào yếu tố chăm sóc vệ sinh. Bao gồm vệ sinh thân thể, vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi trường. Đối với trẻ Mầm non việc giáo dục ý thức, vệ sinh cá nhân nhằm giúp trẻ khoẻ mạnh, tăng cường sức khoẻ, hình thành những kĩ năng sống cơ bản đầu tiên, góp phần tạo nguồn nhân lực có chất lượng trong lương lai.
Không phải trẻ nhỏ nào cũng có thói quen biết rửa tay lúc bẩn, trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, biết đánh răng, rửa mặt đúng quy trình…Muốn tạo được thói quen cho trẻ thì nhiệm vụ của cô là hết sức quan trọng. Cần có sự kiên trì, tỉ mỉ của cô giáo; sự kết phối hợp giữa gia đình và nhà trường, sự đầu tư trang bị chăm sóc vệ sinh và các điều kiện thuận tiện cho hoạt động vệ sinh của trẻ, hình thành những thói quen cơ bản ở trẻ, làm tô điểm vào tâm hồn trẻ những cái hay, cái đẹp. Đức tính này được hình thành vững chắc từ lứa tuổi Mẫu giáo là lứa tuổi trẻ rất dễ nhạy cảm và nhanh chóng tiếp thu những điều học được ở trường và hình thành dấu ấn lâu dài.
Là giáo viên trực tiếp chăm sóc và giáo dục trẻ ở bán trú nhiều năm liền, tôi đã nhận thấy việc hình thành thói quen cho trẻ rất cần thiết. Vì vậy tôi nghiên cứu để tìm ra những biện pháp phù hợp nhất đối với trẻ, xuất phát từ lí do trên tôi chọn đề tài “Một số biện pháp rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ 3- 4 tuổi Trường Mầm Non Đại Hòa”.
4.1 Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết (phân tích ưu điểm, nhược điểm của nó:
Giáo dục trẻ từ 3-4 tuổi. Đây là giai đoạn đặt nền móng đầu tiên quan trọng của nhân cách con người. Nếu không làm tốt việc chăm sóc, giáo dục trẻ trong những năm này thì việc giáo dục hết sức khó khăn và phức tạp. Vì vậy sự phát triển ở giai đoạn này tốt hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ là một trong những vấn đề thiết yếu của bậc học Mầm non – khi trẻ lần đầu tiên đặt chân đến môi trường thứ 2 của mình. Vì vậy cô giáo chủ nhiệm đóng vai trò người mẹ quan trọng trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc những đứa con của mình được uốn nắn, giáo dục từ cử chỉ, lời nói; hành động văn minh, lịch sự thì lớn lên trẻ mới trở thành người có ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Trẻ phải biết tu dưỡng, rèn luyện bản thân từng ngày, từng giờ theo bao năm tháng. Nói lời hay ý đẹp, đi đứng nhẹ nhàng, khoan thai; cư xử với mọi người niềm nở, lịch sự là nền tảng đạo đức của mỗi con người, là hành vi văn hoá, trẻ phát triển một cách khoẻ mạnh nhất và phù hợp với chuẩn mực vệ sinh chung của mọi người.
4.2 Nêu nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm của giải pháp đã biết:
– Ngay từ đầu năm học, sau khi nhận lớp tôi đã bắt tay vào nghiên cứu chuyên đề “Một số biện pháp rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ 3- 4 tuổi”, các nội dung tuy không mới lạ nhưng đi vào chiều sâu, với tầm quan trọng và yêu cầu nhiệm vụ của trường Mầm non trong giai đoạn hiện nay. Đòi hỏi trường Mầm non có sự đầu tư rèn luyện kĩ năng tự chăm sóc phục vụ cho bản thân trẻ, để trẻ có sức khoẻ toàn diện về thể chất, tinh thần nên tôi đề ra một số biện pháp sau:
– Chuẩn bị môi trường và điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết cho hoạt động vệ sinh
– Giáo dục kỹ năng thực hiện.
– Giáo dục vệ sinh và hành vi văn minh lồng vào các hoạt động trong ngày.
– Cô gương mẫu chuẩn mực.
– Trò chơi, nêu gương.
– Giáo dục qua tuyên truyền, kết hợp với cha mẹ trẻ .
4.3 Nêu các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng giải pháp:
*Điều kiện:
– Có giáo viên cùng tham gia sáng kiến kinh nghiệm lần đầu.
– Tập thể trẻ thực hiện những công việc về thói quen vệ sinh và hành vi văn minh với tinh thần tích cực, tự nguyện.
– Giáo viên phải nhiệt tình trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ.
– Lớp được trang bị cơ sở vật chất phải đảm bảo như: phòng học phải thoáng mát; có đủ dụng cụ vệ sinh cá nhân cho từng lớp; trang bị một số thùng đựng rác v.v…
*Phương tiện :
– Giáo viên trang bị máy tính xách tay.
– Sưu tầm tranh ảnh minh hoạ về những việc làm thể hiện hành vi văn minh góp phần bảo vệ môi trường và thói quen vệ sinh .
– Đầu tư có chất lượng hoạt động âm nhạc, phát triển ngôn ngữ…lồng ghép giáo dục thói quen vệ sinh cá nhân và hành vi văn minh với một số bài thích hợp để truyền thụ kiến thức cho trẻ.
– Chuẩn bị một số tài liệu khác có liên quan đến việc rèn thói quen vệ sinh và hành vi văn minh.
4.4 Nêu các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp:
* Biện pháp 1: Chuẩn bị môi trường và điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết cho hoạt động vệ sinh
* Môi trường xã hội:
Muốn trẻ hứng thú với hoạt động vệ sinh thì việc đầu tiên là phải gây được hứng thú cho trẻ khi đến lớp. Trẻ có thích đến lớp thì mới hứng thú tham gia vào các hoạt động khác. Chính vì vậy mà chúng ta cần xây dựng môi trường thân thiện giúp trẻ tích cực, hứng thú với các hoạt động vệ sinh. Môi trường chăm sóc – giáo dục trong trường mầm non cần đảm bảo an toàn về mặt tâm lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục các kỹ năng xã hội cho trẻ. Hành vi, cử chỉ, lời nói, thái độ của giáo viên đối với trẻ và những người khác luôn mẫu mực để trẻ noi theo.
* Môi trường vật chất
Môi trường cho trẻ hoạt động trong phòng, nhóm lớp: Giáo viên xây dựng góc “Rèn kỹ năng sống cho trẻ” với các hình ảnh mang nội dung giáo dục vệ sinh dưới dạng mở để trẻ được thỏa sức lựa chọn những hình ảnh đúng – sai theo khả năng nhận thức của trẻ.
Làm tốt công tác vệ sinh môi trường nề nếp của lớp. Các cháu ở lớp mẫu thời gian rất dài, nếu cô sắp xếp đồ dùng gọn gàng, sạch sẽ, mọi sinh hoạt của lớp có nề nếp làm cho lớp học vui tươi đầm ấm. Tất cả những cái đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thói quen cho trẻ. Lớp học sạch đẹp cháu không nỡ vứt rác bừa bãi, cháu không vứt đồ chơi lung tung, khi mọi thứ trong lớp điều được sắp xếp theo đúng chỗ quy định.
Ngoài ra giáo viên cần làm một số sách, tranh có nội dung giáo dục vệ sinh ở góc thư viện. Các hình ảnh trong sách, tranh phải rõ ràng, màu sắc tươi sáng, ngộ nghĩnh hấp dẫn với trẻ.
Cô cần tạo môi trường gần gũi, phong phú bằng các hình ảnh ngộ nghĩnh tại bồn rửa tay hay trang trí góc vệ sinh cho trẻ.
* Đồ dùng, dụng cụ vệ sinh
Trong tất cả các hoạt động trong trường mầm non đặc biệt là hoạt động vệ sinh thì đồ dùng trực quan đóng vai trò quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao kết quả và ý thức vệ sinh cho trẻ.
Ví dụ: Cô dạy các cháu úp ca thì lớp phải có kệ để ca và ca cho trẻ thực hiện úp, có phương tiện lại được thực hiện thường xuyên ở lớp cũng như ở nhà, cháu sẽ nhanh chóng hình thành được thói quen vệ sinh đó. Cô cùng gia đình kết hợp dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, nếu có điều kiện để rèn luyện những kỹ năng thực hành vệ sinh cho trẻ.
Để đảm bảo đồ dùng phục vụ cho hoạt động vệ sinh cho trẻ ngay từ đầu năm học tôi đã thống kê đồ dùng, dụng cụ của lớp để kịp thời tham mưu với nhà trường bổ sung thêm đồ dùng, dụng cụ vệ sinh đảm bảo cho trẻ hoạt động.
* Biện pháp 2: Giáo dục kỹ năng thực hiện
– Trước tiên cô phải hướng dẫn thật tỉ mỉ cho trẻ cách vệ sinh cá nhân như thế nào là đúng: Rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, thường xuyên tắm gội sạch sẽ, đánh răng hằng ngày; móng tay và móng chân phải được cắt ngắn, tóc cũng được cắt ngắn, cột lên thật gọn gàng, mặc quần áo sạch, đẹp đến lớp học, xếp dép và cặp vào kệ, bỏ rác vào thùng, không vứt rác bừa bãi…
* Thói quen giữ vệ sinh thân thể:
– Việc giữ vệ sinh thân thể là để bảo vệ và củng cố sức khoẻ, sạch sẽ không những thể hiện sự chấp hành những yêu cầu vệ sinh mà còn nói lên mức độ quan hệ của con người với nhau. Chính vì vậy, việc thực hiện các yêu cầu vệ sinh, thể hiện sự tôn trọng những người xung quanh.
a) Thói quen rửa tay: Trẻ cần biết tại sao phải rửa tay, khi nào thì cần được rửa tay…(hình ảnh trẻ rửa tay)
* Quy trình rửa tay sạch: Gồm 6 bước:
+ Bước 1: Làm ướt 2 bàn tay bằng nước sạch, xoa xà phòng vào lòng bàn tay, chà xát 2 lòng bàn tay vào nhau.
+ Bước 2: Dùng ngón tay và lòng bàn tay xoay từng ngón tay của bàn tay kia và ngược lại.
+ Bước 3: Dùng bàn tay này bắt chéo lên mu bàn tay kia và ngược lại
+ Bước 4: Dùng các ngón tay của bàn tay này miết vào kẻ giữa các ngón tay của bàn tay kia và ngược lại
+ Bước 5: Chụm 5 đầu ngón tay của tay này cọ vào lòng bàn tay của tay kia bằng cách xoay đi xoay lại.
+ Bước 6: Xả cho sạch hết xà phòng dưới nguồn nước sạch.
* Lưu ý: Động viên trẻ khi trẻ thực hiện để trẻ mau tiến bộ.
– Các dụng cụ vệ sinh phải để đúng nơi quy định, thuận tiện và đảm bảo an toàn cho trẻ.
– Khi rửa tay biết tiết kiệm nước, không mở vòi nước chảy bừa bãi. Biết khoá vòi nước khi sử dụng xong.
b) Thói quen lau mặt bằng khăn ướt:
– Trẻ nắm được tại sao phải rửa mặt? (Rửa mặt cho sạch sẽ, thơm tho, xinh hơn, không bị bệnh…) để mọi người yêu mến (hình ảnh trẻ lau mặt)
* Quy trình lau mặt bằng khăn ướt: Gồm 5 bước:
+ Bước 1: Rửa tay trước khi rửa mặt
+ Bước 2: Vò khăn vắt bớt nước
+ Bước 3: Rủ khăn, trải khăn lên 2 lòng bàn tay lau 2 mắt trước, di chuyển khăn, lau xong mũi, di chuyển khăn, cứ như vậy lau miệng, cằm, gấp đôi khăn lau trán, lau lên má.
+ Bước 4: Gấp đôi khăn lần nữa lau gáy, cổ, lật mặt sau khăn ngoái 2 lỗ tai, vành tai, cuối cùng dùng 2 góc khăn ngoái lỗ mũi.
+ Bước 5: Vò khăn lần cuối, vắt sạch nước đem treo lên giá.
* Lưu ý: Sau mỗi lần trẻ lau mặt không dùng chung khăn.
c) Thói quen đánh răng:
– Trẻ biết được tại sao phải đánh răng? ( Giữ răng luôn sạch, đẹp, chống sâu răng). Khi nào thì đánh răng? (Tối, sáng) (hình ảnh trẻ đánh răng).
* Quy trình đánh răng: Gồm 5 bước:
+ Bước 1: Làm sạch mặt ngoài các răng vành trên bằng động tác rung nhẹ bàn chải lên xuống hoặc xoay tròn.
+ Bước 2: Chải răng trong của tất cả hàm răng trên dưới
+ Bước 3: Chải lại lần nữa 2 mặt ngoài, mặt trong của răng.
+ Bước 4: Làm sạch mặt trong của răng cửa
+ Bước 5: Chải mặt nhai của răng hàm trên, hàm dưới.
* Lưu ý: Chải đầy đủ 3 mặt, khi chải phải nghiêng bàn chải.
d) Thói quen chải tóc gọn gàng:
– Trẻ cần biết tại sao phải chải tóc, khi nào thì phải chải tóc? (Tóc rối, sau khi ngủ dậy…)
– Cách chải tóc:Cầm lược tóc ngắn chải từ chân tóc ra, tóc dài chải từ ngọn tóc.
đ) Thói quen mặc – cởi quần áo:
– Trẻ phải biết vì sao phải mặc quần áo sạch sẽ, khi nào phải thay quần áo. (Khi bị bẩn, ướt, tắm…)
e) Rèn luyện cho trẻ thói quen vệ sinh và hành vi văn minh:
– Việc ăn uống không những nhằm đáp ứng nhu cầu sinh lý của cơ thể mà còn khía cạnh đạo đức, thẩm mỹ. Hành vi trên bàn ăn thể hiện sự tôn trọng mọi người. (hình ảnh trẻ ngồi ăn).
* Hướng dẫn trẻ vệ sinh lớp học:
– Dù trẻ còn nhỏ nhưng cô giáo cần tạo cho trẻ có một thói quen tự lập và có trách nhiệm với nhiệm vụ được giao bằng cách phân công các tổ làm công tác trực nhật như:
VD: Tổ 1 làm trực nhật ngày hôm nay đấy. Trước khi có sự phân công trực nhật như vậy cô giáo cần trò chuyện với trẻ, giúp trẻ hiểu trực nhật là thay mặt lớp làm công việc chung của lớp, để lớp được ngăn nắp và sạch sẽ hơn.
Qua bài thơ: “ Bé tập làm vệ sinh”
Cứ đến chiều thứ sáu
Bé tập làm vệ sinh
Cùng các bạn trong lớp
Lau đồ chơi lớp mình.
Ví dụ: Sắp xếp lại cặp trên giá, dép trên kệ để dép của các bạn cho gọn gàng, đẹp mắt, cất đồ dùng học tập theo hướng dẫn của cô hoặc cất vở của các bạn vào kệ, nhắc nhở các bạn không bỏ rác ra sàn nhà mà bỏ rác vào sọt rác. (Hình ảnh bé nhặt rác bỏ vào sọt).
– Với những công việc khó hơn như: tưới cây, nhặt lá vàng, đổ nước vào các lọ để cây xanh trong lớp tươi hơn. Cô giáo làm với trẻ, vừa làm cô vừa trò chuyện giúp trẻ hiểu cách làm, hình thành ở trẻ ý thức giữ gìn vệ sinh và hành vi văn minh.
– Trong quá trình thực hiện cô giáo cần quan tâm đến sự cố gắng, sáng tạo của trẻ. Động viên trẻ kịp thời để giúp trẻ có hứng thú trong công việc.
Trên đây là cách hướng dẫn trẻ các hoạt động vệ sinh và hành vi văn minh. Tuy nhiên biện pháp quan trọng nhất là hằng ngày cô phải kiểm tra vệ sinh trẻ về một số vấn đề đơn giản như: Trước khi đi học con đã rửa tay, chân, mặt mũi sạch sẽ chưa? Đã chải tóc chưa? Đánh răng khi ngủ dậy chưa? Có thay quần áo sạch sẽ không? …Cô nên động viên kịp thời cho trẻ thực hiện đúng. Bên cạnh đó cô cần động viên, khuyến khích trẻ chưa thực hiện lần sau cố gắng thực hiện tốt như các bạn. Cô thường xuyên nhắc nhở trẻ đi tiểu tiện đúng nơi quy định; để dép, mũ, cặp gọn gàng, ngăn nắp.
– Trước khi ra về cô nhắc nhở trẻ về tắm rửa sạch sẽ, rửa tay sạch sẽ trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Cứ như thế hằng ngày cô động viên kịp thời những trẻ vệ sinh cá nhân sạch sẽ, để dép, mũ đúng nơi quy định sẽ giúp trẻ dần dần hình thành được thói quen tốt về vệ sinh sạch sẽ.
* Biện pháp 3: Giáo dục vệ sinh và hành vi văn minh lồng vào các hoạt động trong ngày.
Lồng nội dung giáo dục vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ cần được tiến hành trong các hoạt động trong ngày với sự phối hợp sử dụng các biện pháp giáo dục đa dạng, phong phú, hấp dẫn đối với trẻ dưới nhiều hình thức khác nhau: Cho trẻ được quan sát trực tiếp hoặc sử dụng các phương tiện trực quan như: tranh ảnh, đồ vật. Điều quan trọng là sự thay đổi các hình thức hoạt động trong ngày giúp cho trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động một cách tích cực để trẻ hiểu biết ngày càng đầy đủ, vệ sinh thân thể sạch sẽ, có thể lực mạnh mẽ và hành vi văn minh nhằm giúp trẻ hình thành kỹ năng sống cần thiết.
VD: Lúc đón trẻ vào lớp tôi tập cho trẻ đến lớp phải chào cô. Sau đó chào tạm biệt bố hoặc mẹ để vào lớp học.
– Trong giờ chơi tự do hay giờ lao động, sinh hoạt nếu trẻ làm việc gì sai đối với bạn, với cô thì phải biết xin lỗi cô, xin lỗi bạn, ai cho gì thì nhận bằng 2 tay và nói cảm ơn.
– Giờ dạo chơi sinh hoạt ngoài trời: Với nhu cầu hiểu biết cái mới cũng như những khả năng của trẻ, cô tổ chức cho trẻ dạo chơi sinh hoạt ngoài trời, để tạo ra những cuộc tiếp xúc hấp dẫn cho trẻ.
– Giáo dục trẻ khi ra ngoài mang dép, đội mũ nón.
VD: Tham quan vườn cây ăn quả.
– Đàm thoại: Muốn có nhiều quả ngon ta phải làm gì?
– Khi ăn quả các con nhớ đến ai?
– Giáo dục trẻ kính trọng, yêu thương những người lao động. Khi ăn quả phải từ tốn, không vứt hạt và vỏ bừa bãi. Giáo dục trẻ có hành vi trong ăn uống, biết giữ gìn vệ sinh môi trường, vệ sinh lớp; biết đoàn kết giúp đỡ bạn, qua nhiều lần như vậy trẻ đã dần dần có những thói quen đó.
Hay chơi trò chơi dân gian như bài ca dao:
“Nu na nu nống
Một hồ nước trong
Sao không rửa chân
Cho trắng cho xinh
Đi thi chân đẹp
Chân ai sạch sẽ
Gót đỏ hồng hào
Không bẩn tí nào
Được vào kết bạn”.
– Khi có hiệu lệnh của cô chạy nhanh chia làm 2 đội, trẻ trong đội phải tự kiểm tra lẫn nhau về móng tay, quần áo, đầu tóc…Khi cô kiểm tra đội nào có bạn chưa sạch thì đội đó sẽ bị trừ điểm. Sau mỗi lần chơi cô tặng quà cho đội chiến thắng, với những trẻ chưa sạch sẽ cô trực tiếp giáo dục trẻ và động viên trẻ phải biết giữ gìn vệ sinh cho sạch sẽ để được bạn bè, cô giáo yêu mến.
Qua trò chơi này tôi thấy trẻ đi học đến trường rất sạch sẽ.
* Trò chơi: “Thi đố vui” Cô phân 2 đội bằng nhau
– Luật chơi: Đội nào nói đúng và nhanh thì đội đó sẽ thắng.
– Chuẩn bị: Bông hoa, trong mỗi cánh hoa đều có 1 câu hỏi có nội dung giáo dục vệ sinh và hành vi văn minh.
* Cô hướng dẫn:
Hai đội đứng thành 2 nhóm, mỗi đội cử 1 bạn oẳn tù tì. Đội nào hơn thì đội đó sẽ ấn chuột chọn 1 cánh hoa. Khi cánh hoa mở ra thì đội đó trả lời, nếu thời gian trong 5 giây chưa trả lời được thì nhường quyền cho đội khác trả lời. Đội nào trả lời đúng thì thưởng 1 bóng bay, cuối cuộc thi đội nào nhiều bóng bay hơn là thắng, cô phát mỗi bạn 1 hoa bé ngoan.
– Con đáng răng vào lúc nào?
– Để có hàm răng đẹp con phải như thế nào? (Thường xuyên đánh răng)
– Sau khi đi tiểu tiện con phải làm gì? (Rửa tay sạch sẽ)
– Khi đi học con phải làm sao? (Trang phục quần áo, đầu tóc gọn gàng, sạch sẽ)
– Trước khi ăn cơm con phải như thế nào? (Rửa tay sạch sẽ, mời cô, mời bạn, cầm muỗng đúng tay)
– Khi uống sữa xong con vứt ở đâu? (Sọt rác)
– Khi ăn con ăn như thế nào là đúng? (Ăn nhai từ tốn, không nuốt vội)
– Khi ho, ngáp, hắt hơi, hỉ mũi con phải làm gì? (Phải lấy tay che miệng)
– Con làm gì để trường lớp luôn sạch đẹp? (Thường xuyên quét dọn)
– Đến nơi công cộng con phải làm gì để giữ vệ sinh? (Không khạc nhổ, vứt rác bừa bãi…)
Hội thi trên tôi thấy trẻ rất hứng thú tham gia tích cực, biết suy nghĩ, biết diễn giải rõ ràng và biết phải làm những gì để sạch sẽ và khoẻ mạnh.
– Hay trước giờ ăn, tôi thường xuyên nhắc nhở và cho trẻ rửa tay có sự giám sát của cô trẻ ăn xong đánh răng, vệ sinh cá nhân mới vào ngủ.
– Khi trẻ ngủ dậy tôi không cho trẻ ra ăn ngay mà cho trẻ đi vệ sinh. Sau đó cho trẻ rửa tay, rửa mặt sạch sẽ cho tỉnh táo rồi sau đó mới ăn xế.
– Mỗi buổi chiều nêu gương cuối ngày , tôi thường xuyên chú trọng và đưa tiêu chí thi đua: “Học giỏi, chăm ngoan, vâng lời cô, yêu thương bạn và giữ gìn vệ sinh cá nhân sạch sẽ…”. Được các bạn trong lớp bầu chọn và nhất trí thì sẽ được cắm cờ.
– Tôi đã tạo môi trường vệ sinh trong lớp như: Vẽ những hình ảnh về chăm sóc – giáo dục vệ sinh, quy trình rửa tay, rửa mặt, đánh răng vui ngộ nghĩnh ở khu vực trẻ làm vệ sinh cá nhân.
* Hoạt động học:
– Tôi lồng giáo dục vệ sinh vào các hoạt động có chủ đích trong từng hoạt động học tuỳ theo từng chủ đề, chú trọng vào chủ đề bản thân, gia đình…
VD: Qua hoạt động Khám phá khoa học “Tìm hiểu về cơ thể của bé” tôi lồng ghép giáo dục vệ sinh vào vừa nhẹ nhàng vừa lôi cuốn và giúp trẻ nhớ lâu , trẻ rất thích thú qua câu chuyện “Tại ai?”. Câu chuyện có nội dung: Bạn Mũi tâm sự: mấy hôm nay tôi bị ngứa như có con gì nằm trong đấy; còn mắt thì vừa buồn vừa than : tôi đỏ lại còn nhức nữa chứ, không biết vì sao? Khi ra đường cô chủ đeo khẩu trang và kính che tụi mình rồi mà! Mũi và Mắt tìm chưa ra nguyên nhân thì Miệng lên tiếng: Tôi nghe tâm sự của 2 bạn rồi, các bạn biết không? Chỉ tại cô chủ, mấy hôm nay cô chủ cho Tay làm việc nhiều quá nào là vẽ, xếp hình, chơi đùa với các bạn mà không chịu rửa tay, còn ngoáy vào bạn Mũi, nhụi vào bạn Mắt làm các bạn đau và ngứa đó thôi. Để Miệng nói với cô chủ thường xuyên rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, sau khi chơi xong…kẻo còn ảnh hưởng đến bạn Tai, bạn Bụng và cả tôi nữa đấy. Mắt còn nói thêm: nhờ Miệng nói với cô chủ, khi nào dùng khăn lau chúng tôi phải nhớ rửa tay thật sạch với xà phòng mới lấy khăn lau nhé, chúng tôi sợ lắm rồi.
+ Qua giờ học phát triển ngôn ngữ:
Bài thơ: “Áo quần sạch sẽ” “Giữ chân sạch sẽ”
Áo quần sạch sẽ Giữ chân sạch sẽ
Mẹ giặt vừa khô Này đôi dép nhỏ
Sạch sẽ thơm tho Bé xỏ rất vừa
Em không bôi bẩn. Dép đẹp vừa mua
Giữ chân cho sạch.
“Chùi mũi”
Một khi có mũi
Bé nhớ chùi ngay
Chớ có dùng tay
Quẹt ngay qua má
Trông thật xấu quá
Cô chẳng yêu đâu.
Hay bài thơ: “Đôi mắt của em” tôi lồng giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ theo cách khác tránh sự lặp lại và nhàm chán cho trẻ. Tôi cho trẻ trò chuyện về đôi mắt.
– Đôi mắt giúp ta những gì?
– Nếu mắt bị bệnh, đau không nhìn thấy thì điều gì sẽ xảy ra?
– Muốn cho đôi mắt sáng, trong veo, không bị đau, các con phải làm gì?
– Từ đó không những giúp trẻ tiếp thu bài nhanh mà còn hiểu được và biết cách bảo vệ mắt, không dụi tay bẩn lên mắt, rửa mặt thường xuyên bằng nước sạch, đi ra đường phải có kính bảo vệ mắt.
* Phát triển thẩm mỹ:
Qua bài hát: Rửa tay trước khi ăn
Cô ơi cô! Mẹ con dặn
Trước khi ăn, phải rửa tay
Mẹ ơi mẹ! Cô giáo dạy
Trước khi ăn, phải rửa tay
Hay! Hay! Hay!
– Cô đặt những câu hỏi gợi mở cho trẻ trả lời
– Vì sao trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh phải rửa tay?
– Tôi cho trẻ nói lên suy nghĩ của mình đẻ trẻ ý thức và biết được tầm quan trọng của việc rửa tay với xà phòng, rửa sạch nhưng không bắn nước ra ngoài và biết tiết kiệm nước. Cứ như thế hằng ngày cô động viên kịp thời và luôn nhắc nhở trẻ… hằng ngày thành nếp và thói quen cho trẻ, từ đó trẻ có ý thức tự giác biết cách rửa tay và giữ vệ sinh.
* Hoạt động vui chơi:
Đối với trẻ ở lứa tuổi này trẻ học mà chơi, chơi mà học. Trong hoạt động vui chơi, quan hệ của trẻ với người lớn và với bạn bè được bộc lộ ra trọn vẹn hơn cả, sẽ gắn trẻ với đời sống thực tại và tạo ra những biến đổi cơ bản ở trẻ. Trẻ được thực hành, trải nghiệm nhiều vai chơi khác nhau trong cuộc sống của người lớn. Giáo dục trẻ những cách cư xử khéo léo, những hành động tốt…tôi tiến hành lồng hành vi văn minh vào từng vai vui chơi. Qua đó trẻ được đối thoại những câu chào hỏi lễ phép, câu cảm ơn, xin lỗi, trao nhận bằng 2 tay, tôi theo dõi quan sát, lắng nghe để kịp thời uốn nắn trẻ khi có biểu hiện chưa chuẩn mực. Qua đó giúp trẻ hình thành thói quen hành vi trong giao tiếp.
VD: Qua trò chơi phân vai: Y tá bác sĩ
– Bác sĩ biết thăm hỏi bệnh nhân ân cần, xưng hô anh, chị…con đau chỗ nào?
– Y tá phát thuốc dặn bệnh nhân uống thuốc ngày mấy lần, bệnh nhân nhận thuốc bằng 2 tay và nói cảm ơn đối với cô y tá và bác sĩ.
Hay chủ đề gia đình:
– Qua việc đóng vai: Ông bà, bố mẹ, anh chị, em…trẻ sẽ được luyện tập sử dụng các phương thức, hành vi giao tiếp có văn hoá.
– Quá trình nhập vai (Ông bà, bố mẹ, anh chị, em…) sẽ tạo ra những xúc cảm tích cực ở trẻ với mọi thành viên trong gia đình. Trẻ thêm hiểu về công việc của mọi người, quan tâm và thông cảm với nhau hơn và biết điều chỉnh hành vi cho phù hợp.
VD: Vai mẹ, khi phân công công việc cho các con, đưa ra yêu cầu hành vi đối với từng vai:
– Ai giúp mẹ đi chợ? Khi mua hàng con nói như thế nào?
– Ai giúp mẹ trông em? Khi chơi với em con cư xử ra sao?
– Khi ra khỏi nhà con phải làm gì? (Xin phép bố mẹ)
Nhờ sự hướng dẫn của tôi, các trẻ trong lớp đã biết nhường nhịn đồ chơi, đoàn kết giữa các nhóm. Không còn chơi riêng lẻ, tranh dành đồ chơi với bạn. Mặt khác trẻ luôn có trách nhiệm với công việc được phân công. Qua hoạt động vui chơi trẻ mạnh dạn dần, thành thạo dần trong giao tiếp, trong ứng xử, biết chào hỏi đối với mọi người xung quanh mình, biết xưng hô chuẩn mực.
* Biện pháp 4: Cô gương mẫu chuẩn mực:
– Đặc điểm của trẻ 4-5 tuổi là thích bắt chước hành vi của người gần gũi với chúng trong cuộc sống (Ông bà, bố mẹ, cô giáo, bạn bè…). Lúc đầu trẻ thường bắt chước chưa có ý thức, nhưng nếu được hướng dẫn, chỉ bảo, sự ý thức của trẻ trở nên có ý thức hơn: Từ bắt chước hình thức bên ngoài của hành vi đến phẩm chất bên trong. Việc sử dụng các mẫu mực hành vi đẹp không những giúp trẻ có những biểu tượng về hành vi đúng, mà khi trẻ nghe hoặc nhìn thấy hành vi của những người gần gũi trẻ sẽ có xúc cảm, tình cảm tốt đẹp với việc thực hiện hành vi. Cần khen thưởng kịp thời khi trẻ nhận ra, hưởng ứng và thực hiện hành vi đúng trong cuộc sống hằng ngày. Vì ở lứa tuổi của trẻ luôn thích được cô yêu thương, khen ngợi, mọi hành vi của cô được trẻ lưu tâm nhất. Vì vậy cô giáo hằng ngày đến lớp ăn mặc sạch, đẹp; đồ dùng, đồ chơi trong lớp sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ. Mọi sinh hoạt của lớp có nề nếp làm cho lớp học vui tươi, đầm ấm. Tất cả những cái đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thói quen cho trẻ. Lớp học sạch đẹp trẻ không nỡ vứt rác bừa bãi, không vứt đồ chơi lung tung, khi mọi thứ trong lớp đều được sắp xếp theo đúng chổ quy định.
– Hằng ngày cô thực hiện nghiêm túc thời gian biểu trẻ sẽ thực hiện đúng giờ nào việc ấy, cô luôn chuẩn mực trong lúc giao tiếp với người lớn, xưng hô lịch sự với phụ huynh và đồng nghiệp. Vì những việc làm tốt được lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ thành thói quen tốt – Sự gương mẫu của cô và những người xung quanh. Đặc điểm của trẻ là hay bắt chước cái đúng, cái tốt nhưng cũng có thể bắt chước cái sai, cái xấu. Cho nên cô giáo và mọi người xung quanh cần phải tự rèn bản thân và tuân thủ những yêu cầu vệ sinh của nhà trường. Thực hiện triệt để lời nói phải đi đôi với việc làm để thực sự là tấm gương sáng cho trẻ noi theo.
* Biện pháp 5: Trò chơi, nêu gương.
Để có động lực thúc đẩy sự thích thú, phấn khởi và tạo được nề nếp thói quen cho trẻ, tôi đã vận động cha mẹ trẻ của lớp phát triển phong trào thi đua với các tiêu chí cụ thể: “Bé chăm ngoan, sạch đẹp” nhằm rèn luyện vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
VD: Trò chơi: “Mắt bé nào tinh”.
– Cô giới thiệu tên trò chơi
– Cô chia thành 2 đội
– Cô nói luật chơi, cô đưa ra hình ảnh:
VD: Bác sĩ Cò ngồi trên lưng bệnh nhân Trâu thì 2 đội hội ý và thoả luận xem nội dung tranh nói gì? Đội nào nhanh tay rung trống lắc trước thì được dành quyền trả lời trước cho đến hết phần thi đội nào trả lời được nhiều câu đúng hơn thì đội đó sẽ chiến thắng.
– Vào mỗi buổi sáng tôi thường đưa ra những tiêu chuẩn bé ngoan về vệ sinh và hành vi văn minh để trẻ thực hiện.
– Cuối tuần có một món quà nhỏ trao tặng cho trẻ nào thực hiện tốt nhất, tuần nào cũng vậy tôi không bao giờ bỏ qua.
* Biện pháp 6: Giáo dục qua tuyên truyền, kết hợp với cha mẹ trẻ.
– Trong việc chăm sóc giáo dục vệ sinh và sức khoẻ trẻ thơ nhằm rèn cho trẻ thói quen vệ sinh văn minh bền vững cho trẻ. Trước hết giáo viên phải làm tốt công tác tuyên truyền đến các bậc phụ huynh nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc giữ gìn vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ. Trong buổi họp phụ huynh tôi đã tổ chức tuyên truyền đến các bậc phụ huynh bằng nhiều hình thức.
– Góc tuyên truyền của lớp không thể thiếu đây là biện pháp rất hữu hiệu đối với chuyên đề giáo dục thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ. Bởi lẽ trẻ có đặc điểm dễ nhớ nhưng lại mau quên, song trẻ được trực quan bằng hình ảnh những gương tốt hoặc qua thơ, chuyện thì trẻ dễ tiếp thu, dễ phân biệt việc làm nào tốt, việc làm nào xấu.
Để có một kết quả tốt về giáo dục vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ, đầu năm học tôi đã lên kế hoạch theo từng tháng và nội dung sau:
Thời gian Nội dung giáo dục Yêu cầu đạt
Tháng 9 – Trẻ đi học áo quần sạch sẽ, tóc gọn gàng.
– Biết xin phép cô khi ra ngoài.
– Đi tiểu tiện đúng nơi quy định 70%
Tháng 10 – Biết chào hỏi khi có khách đến lớp
– Biết nhường nhịn bạn trong khi chơi
– Không vứt rác bừa bãi trong lớp học 75%
Tháng 11 – Biết cách xưng hô với bạn và cô
– Biết lau đồ dùng, đồ chơi, sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp
– Biết giữ gìn vệ sinh thân thể sạch sẽ 80%
– Từng tháng tôi lên kế hoạch có yêu cầu cao hơn, góc tuyên truyền thường ngoài cửa, để phụ huynh dễ nhìn thấy, biết được kế hoạch chăm sóc của nhà trường để có hướng nhắc nhở con cái mình.
– Hằng tháng tôi lên kế hoạch giáo dục vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ và luôn thay đổi tranh ảnh có nội dung phù hợp với từng chủ điểm.
– Tuyên truyền qua các hội thi: “Bé Khỏe, bé ngoan” thành phần tham gia hội thi có: Cô giáo, học sinh, phụ huynh, đây là bước chuẩn bị quan trọng để giúp cho phụ huynh xác định rõ tầm quan trọng , các yêu cầu phối hợp để thay đổi nhận thức và hành vi phù hợp với giáo viên ở lớp. Tôi viết cho lớp mình một đề tài phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi để xây dựng nội dung tuyên truyền cho phụ huynh, chủ yếu dưới dạng tiểu phẩm, thơ ca, hò vè ngắn gọn để chuyển tải các nội dung. Yêu cầu phối hợp của cha mẹ trẻ trong việc giáo dục chăm sóc vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
– Tầm quan trọng của việc giữ gìn vệ sinh, tiểu phẩm cần dí dỏm, ngộ nghĩnh như: Vì sao bé rửa mặt, đôi bàn tay xinh…
– Khi xây dựng tiểu phẩm cần chú ý đến trang phục cũng phải phù hợp theo đúng từng vai diễn, nội dung cần ngắn gọn nhưng phải đầy đủ, lời thoại dễ thuộc, dễ nhớ, dễ hiểu nhằm làm cho hội thi trở nên thiết thực và đạt hiệu quả cao.
– Tôi luôn trao đổi với phụ huynh hằng tháng thông qua sổ liên lạc về sự tiến bộ của mỗi trẻ để phụ huynh kịp thời nắm bắt hoặc góc tuyên truyền của lớp, giờ đón và trả trẻ: Cô tuyên truyền với nội dung phong phú và phải thay đổi thường xuyên, lựa chọn nội dung tuyên truyền phải hay, hấp dẫn, đẹp…thực hiện khai thác triệt để tác dụng của tranh, tài liệu tuyên truyền. Ngoài ra cần có đồ dùng phương tiện đảm bảo cho việc chăm sóc vệ sinh trẻ, những đồ dùng phương tiện nên để đúng quy định, thuận tiện đảm bảo an toàn cho trẻ sử dụng, nhấn mạnh vai trò nêu gương của người lớn trong giá đình cũng như ở trường, giúp trẻ được sống trong môi trường sạch sẽ, tạo cho trẻ thực hành và ghi nhớ những điều đã học, từ đó sẽ hình thành những kĩ năng cần thiết cho trẻ trong cuộc sống.
4.5 Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến:
Việc đưa nội dung giáo dục vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ ngay từ lứa tuổi Mầm non là một quá trình hoạt động có mục đích, có hệ thống, có kế hoạch nhằm hình thành ở trẻ những hiểu biết trong đời sống hằng ngày, là những nhiệm vụ giáo dục phát triển toàn diện nhân cách con người. Nó hình thành cho trẻ thói quen nhanh chóng hoà nhập vào công việc, làm cơ sở cho trẻ bước vào hoạt động nhận thức một cách có tổ chức, sự chú ý để giải quyết một nhiệm vụ có tính độc lập. Nó bao gồm cả việc hình thành thói quen vệ sinh và hành vi văn minh, có những động cơ xã hội đúng đắn trong đối xử với mọi người xung quanh, duy trì quan hệ với bạn bè cùng tuổi. Vì vậy ở trường Mầm non giáo viên có trình độ chuyên môn và năng lực sư phạm nhất định để linh hoạt và sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động sao cho hấp dẫn và có sức lôi cuốn trẻ vào hoạt động tích cực, rèn thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ diễn ra lâu hay mau phụ thuộc rất nhiều vào mức độ đúng đắn trong việc chuẩn của người lớn đối với đứa trẻ. Cô luôn tạo môi trường thân thiện cho trẻ, để trẻ thích đến lớp và gần gũi với cô và biết kết phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong suốt quá trình giáo dục nhằm thống nhất mục đích, nội dung giáo dục, để việc chăm sóc giáo dục trẻ một cách có hiệu quả.
5. Những thông tin cần được bảo mật : Không.
6. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Qua 1 năm học tôi áp dụng các biện pháp rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ. Nhìn chung đến nay trẻ đã hình thành các kĩ năng, kĩ xảo, thực hiện tốt các thao tác vệ sinh và hành vi văn minh, hiện tượng ăn quà vặt trong lớp không còn xảy ra, biết sạch sẽ đem lại sức khoẻ tốt để học tập tốt và mọi người thân thiện hơn, biết giữ gìn vệ sinh trong mọi lĩnh vực.
* Thói quen vệ sinh:
– Trẻ biết giữ gìn vệ sinh thân thể: Tay, chân, mặt, mũi, đầu tóc sạch sẽ; rửa tay, rửa mặt, đánh răng đúng quy trình.
– Khi đến lớp biết chải tóc gọn gàng, sắp xếp ba lô, giày dép, mũ vào giá.
– Mặc áo quần sạch sẽ gọn gàng, không mặc quần áo bẩn, rách, đứt cúc, không bôi bẩn vào quần áo, thường xuyên tắm rửa thay quần áo.
– Giờ ăn trưa: Biết vệ sinh trong ăn uống, rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, biết ngồi đúng chỗ của mình, biết sử dụng các dụng cụ ăn uống, mời cô, mời bạn.
– Ăn uống từ tốn, nhai kĩ không nuốt vội, không ngậm thức ăn lâu trong miệng, ăn hết suất, biết nhặt cơm rơi vào đĩa, ăn xong biết sử dụng khăn lau hợp lý.
– Uống nước: Không uống nước lã, không uống chung cốc, không làm đổ nước, không rót nước quá đầy, không thò tay vào bình nước.
– Đi tiểu tiện đúng nơi quy định
– Không vứt rác bừa bãi, biết giữ gìn trường lớp sạch đẹp.
– Biết lau chùi và sắp xếp đồ dùng, đồ chơi trong lớp sạch sẽ, gọn gàng.
– Biết yêu quý, bảo vệ cảnh đẹp của thiên nhiên. Không hái hoa, ngắt lá, bẻ cành cây ở trường, chăm tưới cây, nhổ cỏ, dọn vệ sinh.
– Biết giữ vệ sinh, lịch sự nơi công cộng, không khạc nhổ bừa bãi.
* Hành vi văn minh:
– Trẻ đã thể hiện được nếp sống văn minh, lịch sự.
– Biết giữ gìn ngăn nắp nơi chơi, nơi học. Biết giữ gìn đồ dùng, đồ chơi của lớp.
– Khi gặp người lớn biết lễ phép chào hỏi.
– Khi ho, ngáp, hắt hơi biết lấy tay che miệng.
– Biết chào cô khi đến lớp, khi ra về.
– Biết cảm ơn khi được giúp đỡ, biết xin lỗi khi hành động sai.
– Biết thương yêu ông bà, cha mẹ, anh chị…biết nhường nhịn bạn, giúp đỡ lẫn nhau.
– Biết đi thưa về trình, biết chào hỏi lễ phép với mọi người.
– Biết yêu quý, bảo vệ cảnh đẹp của thiên nhiên.
– 100% trẻ có kĩ năng thao tác vệ sinh và hành vi văn minh, hiểu rõ được ích lợi của việc vệ sinh cá nhân và hành vi văn minh.
– 100% trẻ có ý thức tốt trong việc làm vệ sinh.
– 100% trẻ đến lớp biết chào cô, chào cha mẹ. Khi đi chơi trong sân trường gặp các cô, chú không phải là cô giáo của mình nhưng trẻ vẫn chào hỏi rất lễ phép.
– Trẻ về nhà biết thưa gửi; chào hỏi ông bà, họ hàng.
– Đa số phụ huynh phối kết hợp tốt với giáo viên trong các hoạt động, đặc biệt giúp cô giáo duy trì thói quen, kĩ năng thực hiện thao tác vệ sinh cho trẻ ở nhà.
– Qua đánh giá các chỉ tiêu về vệ sinh và hành vi văn minh từ đầu năm đến nay trẻ đạt:
+ Khám sức khoẻ của trẻ tỷ lệ mắc các bệnh về mắt, răng, miệng, da giảm rõ rệt. Đầu năm là: 75% đến nay là 95%.
+ Tỷ lệ sức khoẻ: Đầu năm trẻ phát triển bình thường là: 85%, trẻ suy dinh dưỡng là: 15,4 %
+ Tỷ lệ trẻ bình thường đến nay là: 96%, trẻ suy dinh dưỡng là: 4% giảm nhiều so với đầu năm.
* Với những kết quả trên tôi rút ra bài học kinh nghiệm:
– Bản thân cô giáo phải luôn tìm tòi, sáng tạo, sưu tầm tranh ảnh, thơ ca, hò vè để góc thư viện của bé phong phú hơn, luôn thay đổi từng góc chơi để tạo sự mới lạ, hấp dẫn trẻ.
– Các hoạt động học lồng ghép nội dung giáo dục vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
– Phải thường xuyên thực hiện giờ nêu gương để động viên, khích lệ tinh thần trẻ.
– Sự kết phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường, tạo được môi trường thân thiện là yếu tố quan trọng thực hiện tốt mọi vấn đề như: Giáo dục vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
– Cô giáo phải thực sự là tấm gương sáng cho trẻ noi theo, luôn giàu tình yêu thương, luôn thận trọng trong mọi hành vi của mình, thân thiện yêu thương để tạo tâm lý thoả mái cho trẻ thực hiện tốt mọi hành vi, nhằm từng bước hình thành nhân cách cho trẻ. Bên cạnh đó môi trường và cảnh quan sư phạm cũng góp phần hình thành cho trẻ những hành vi văn minh để dần dần hoàn thiện nhân cách tốt đẹp của truyền thống con người Việt Nam.
7. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý của tổ chức, cá nhân, đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử: Sáng kiến được đồng nghiệp trong tổ tham gia và đánh giá cao, hiệu quả đạt được về: ‘‘Một số biện pháp rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ 3 – 4 tuổi’’.
8. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):
TT Họ và tên Nơi công tác Nơi áp dụng sánh kiến kinh nghiệm Ghi chú
1 Nguyễn Thị Hải Trường MN Đại Hòa Lớp Bé 3 Trường MN Đại Hòa
2 Đặng Ngọc Quỳnh Dung Trường MN Đại Hòa Lớp Bé 1 Trường MN Đại Hòa
3 Võ Thị Dung Trường MN Đại Hòa Lớp Bé 2 Trường MN Đại Hòa
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trên trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Đại Hòa, ngày 15 tháng 11 năm 2022
Xác nhận và đề nghị của
Cơ quan, đơn vị tác giả công tác Người nộp đơn
Nguyễn Thị Hải