Website Trường Mầm Non Đại Hòa – Đại Lộc – Quảng Nam

BÁO CÁO SÁNG KIẾN – ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC TÍNH TỰ LẬP CHO TRẺ MẦM NON – TÁC GIẢ: NGUYỄN THỊ THẢO – GIÁO VIÊN TRƯỜNG MN ĐẠI HOÀ

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Phòng Giáo dục & Đào tạo Đại Lộc.
Tôi (chúng tôi) ghi tên dưới đây:
TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác (hoặc nơi thường trú) Chức danh Trình độ chuyên môn Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến
1 Nguyễn Thị Thảo 1993 Trường Mầm non Đại Hòa Giáo viên Đại học sư phạm mầm non. 100%
Là tác giả (nhóm tác giả) đề nghị xét công nhận sáng kiến : Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục tính tự lập cho trẻ 3-4 tuổi.
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến : Nguyễn Thị Thảo
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Trẻ Mẫu giáo 3 – 4 tuổi Trường Mầm non Đại Hòa, Đại Lộc, Quảng Nam.
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Ngày 15 tháng 9 năm 2023
4. Mô tả bản chất của sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục tính tự lập cho trẻ mầm non gồm các nội dung sau:
4.1.Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết ( Phân tích ưu, nhược điểm)
*Ưu điểm:
– Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường đã tạo điều kiện cho các cán bộ giáo viên được bồi dưỡng về chuyên môn , học tập bồi dưỡng các chuyên đề .
– Giáo viên chủ nhiệm lớp đều có trình độ đạt chuẩn
– Các giáo viên luôn nhiệt tình, tận tụy, tâm huyết với nghề, yêu thương trẻ, có tinh thần trách nhiệm trong mọi công việc, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực sư phạm cho bản thân.
– Trẻ ở cùng một độ tuổi nên mức độ nhận thức tương đối đồng đều. Chính vì vậy việc dạy trẻ ở lớp có nhiều thuận lợi. Bản thân đã trải qua nhiều năm được trải nghiệm thực tế trên lớp với trẻ, đồng thời được tham gia học hỏi kinh nghiệm qua bạn bè đồng nghiệp nên cũng đã học được một số kinh nghiệm trong phương pháp giảng dạy.
– Trẻ đi học chuyên cần cao nên đảm bảo quá trình dạy và học của cô và trò không bị gián đoạn.
– Các cháu nhìn chung khỏe mạnh, nhanh nhẹn, thích khám phá cái mới, cùng một lứa tuổi…, thuận lợi cho việc tiếp thu kiến thức do cô truyền đạt
*Nhược điểm:
* Về phía giáo viên:
– Giáo viên chủ nhiệm lớp đều còn trẻ nên trong quá trình giảng dạy gặp không ít khó khăn
– Là một giáo viên có nhiều cố gắng trong quá trình công tác và đầy đủ năng lực, trình độ chuyên môn nhưng vì điều kiện trẻ ở miền núi nên trẻ tiếp thu chậm
* Về phụ huynh:
– Phụ huynh đa số sống bằng sản xuất nông nghiệp là chính nên nhiều phụ huynh chưa nhận thức được hết tầm quan trọng của độ tuổi mẫu giáo. Một số cháu bố mẹ đi làm xa ở nhà với ông bà dẫn đến cô tuyên truyền tới phụ huynh gặp nhiều khó khăn.
* Về phía trẻ:
– Hầu hết số trẻ trong lớp tôi chưa qua lớp nhà trẻ nên kỹ năng tự phục vụ của trẻ hầu như không có mà hoàn toàn phụ thuộc vào bố mẹ và cô giáo.
-Do bố mẹ trẻ luôn coi trẻ còn rất nhỏ và non nớt nên quá nuông chiều mà không để trẻ tự làm lấy một việc gì dù là nhỏ nhất.
-Một số trẻ được bố mẹ quá nuông chiều, một số trẻ lại quá hiếu động nhưng không biết tự phục vụ bản thân, không biết giữ gìn vệ sinh cơ thể mà thường phụ thuộc vào bố mẹ và cô giáo.
– Ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế một số cháu còn nói ngọng ,phát âm chưa rõ ràng, chưa diễn tả được ý hiểu của mình đối với người khác.
Từ những nguyên nhân trên, tôi đã trăn trở tìm tòi, suy nghĩ làm thế nào có những biện pháp hợp lý để cho trẻ hứng thú và đạt chất lượng cao.
4.2 Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm của giải pháp đã biết:
Sau khi nắm được tình hình của lớp bản thân đã đề ra một số nội dung để cải tiến, khắc phục nhược điểm trên.
Đối với trẻ em Tính tự lập được hình thành rất sớm và là một biểu hiện tâm lí có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành các phẩm chất nhân cách của trẻ. Một số dấu hiệu đáng tin cậy của bắt đầu sự hình thành tính tự lập, đó là nhu cầu tự khẳng định mình xuất hiện. Trẻ muốn tự làm một số công việc trong sinh hoạt hằng ngày. Giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ khi còn bé không những tạo ra cho trẻ khả năng tự lập trong sinh hoạt hằng ngày mà còn là một trong những điều kiện quan trọng để hình thành sự tự tin, năng động, sáng tạo, làm cơ sở hình thành các kĩ năng sống sau này.
Thực tế hiện nay cho thấy, đối với gia đình, chủ yếu là cha mẹ còn có nhiều sai lầm về giáo dục nói chung và giáo dục tính tự lập cho trẻ nói riêng. Thứ nhất là nuông chiều con quá mức chỉ biết hưởng thụ sau này trở thành người có tính ích kỉ, vụng về, thiếu tự tin trong cuộc sống. Thứ hai là không tin vào khả năng của trẻ, trẻ muốn làm nhưng thấy trẻ làm lóng ngóng, chậm chạp thì tỏ ra khó chịu, nên người lớn thường “Sốt ruột” và làm thay trẻ, dẫn đến trẻ có thái độ bướng bỉnh dần dần tạo ra sự ỉ lại, lười biếng, mất tự tin ở trẻ.
Cho nên, tôi phải tổ chức giáo dục tính tự lập cho thật tốt bằng những biện pháp cụ thể như sau:
4.3. Nêu các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng giải pháp:
Về điều kiện, phương tiện:
Giáo viên cho trẻ tiếp xúc trực tiếp mới có ấn tượng, mới khắc sâu vào trí nhớ cho trẻ. Mặc dù việc chuẩn bị vật thật cho dạy học là điều khó khăn nhưng chúng ta cố gắng khắc phục thì hiệu quả đạt rất cao.
Giáo viên có thể lấy hình ảnh từ trên mạng cài vào các slide của chương trình Powerponit để hình ảnh sinh động hơn.
Trẻ em được tiếp xúc với nền giáo dục tốt thì trẻ phát triển theo chiều hướng tốt. Ngược lại nếu trẻ em tiếp xúc với nền giáo dục không đúng đắn sẽ dẫn đến các hậu quả tiêu cực. Do đó việc giáo dục tính tự lập cho trẻ cần được áp dụng càng sớm càng tốt, và là phương pháp rất quan trọng và cần thiết.
4.4 Nêu các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp (nhằm để giải quyết các vấn đề đã nêu trên)
Biên pháp1 : Xác định rõ kỹ năng rèn luyện cho trẻ từ đầu năm học
Tự lập là gì? Để xác định được mục tiêu rèn luyện kỹ năng tự lập chúng ta phải hiểu được ý nghĩa của tính từ ‘Tự lập’ .Tự lập nghĩa là sống dựa vào chính khả năng, sức lực của bản thân mình, mà không cần phải trông đợi, dựa dẫm vào người khác.Tự lập là một phẩm chất quan trọng và phức tạp của nhân cách .Ngay từ khi trẻ ý thức được “cái tôi” của mình ,thì việc hình thành giáo dục và phát triển tự lập cho trẻ là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết của các cô giáo ,bố mẹ,ông bà…Nhưng người lớn thườngkhông muốn trẻ phải gánh nhiều trách nhiệm khi chưa thực sự sẵn sàng, thế là lại tiếp tục làm mọi việc giúp trẻ như thường lệ mà ít nhận ra rằng con trẻ đã đủ khéo léo, có các kỹ năng phù hợp và đủ tự tin bắt tay vào một công việc nào đó. Để hình thành tính tự lập, người lớn cần tin tưởng trẻ, động viên và khuyến khích trẻ làm những công việc trong khả năng. Nếu mọi người kiểm soát trẻ quá chặt để trẻ phụ thuộc quá lâu thì trẻ sẽ bát riết lấy cha mẹ, cô giáo, chúng có thể trở thành những đứa trẻ lưới biếng và mọi việc đối với trẻ đều trở nên khó khăn. Xuất phát từ tư duy này cô giáo và cha mẹ nên dạy con tính tự lập, sống bằng đôi tay của mình ngay từ nhỏ. Với mỗi độ tuổi khác nhau để đặt ra mục tiêu và cách thực hiện các bước khác nhau .
Vì vậy ngay từ đầu năm học tôi đã đặt ra các mục tiêu để rèn luyện tính tự lập với các kỹ năng cho trẻ lớp mình như sau:
– Kỹ năng phục vụ bản thân: Tự nhặt đồ chơi, tự cởi và mặc quần áo, rửa mặt, rửa tay, tự đi dép, tự cất dép, lấy đồ dùng cá nhân của mình khi đến lớp và khi ra về, tự ăn, tự đi lên xuống cầu thang, tự lấy và cất gối.
– Kỹ năng hỗ trợ người khác: Lấy, cất đồ dùng học tập, chuẩn bị bàn ăn, giường ngủ cùng cô, lấy ly nước uống khi được nhờ, xách phụ đồ, tưới cây…..
– Kỹ năng thói quen vệ sinh: Tự thay quần áo khi thấy bẩn, tự xúc miệng nước muối sau khi ăn, lau nước trên sàn, lau bụi trên bàn, xả nước sau khi đi vệ sinh, đi vệ sinh đúng nơi qui định, rửa tay bằng xa phòng khi tay bẩn, nhặt rác, bỏ rác vào đúng nơi qui định, tự rửa tay, chân khi thấy bẩn, biết tự đi vệ sinh khi thấy có nhu cầu.
Việc xác định được những kỹ năng như trên đã giúp tôi định hướng được nhiệm vụ của mình trong công tác chăm sóc trẻ nói chung và việc thực hiện đề tài nghiên cứu nói riêng. Và nhờ xác định được những kỹ năng đó mà tôi đã rèn trẻ thông qua hoạt động một ngày của bé

Biện pháp 2: Biện pháp cô làm gương cho trẻ:
Hàng ngày trẻ đến lớp cùng cô, cả ngày cùng học tập sinh hoạt cùng cô. Vì vậy cô giáo vừa là bạn, vừa là cô, là tấm gương cho trẻ noi theo. Hàng ngày cô đến lớp cất túi sách, áo khoát, giày dép gọn gàng đúng nơi qui định của cô và làm kí hiệu những ngăn tủ riêng cho từng trẻ và dạy trẻ để đồ dùng đúng chỗ và ngay ngắn. Đồ dùng trong lớp cô sắp xếp ngay ngắn, gọn gàng theo nhóm mỗi khi sử dụng xong cô cất ngay đúng vị trí qui định, dạy trẻ chú ý cách sắp xếp đồ dùng trong lớp và biết lấy cất đồ dùng của mình và của cô gọn gàng.
Trong mọi hoạt động học tập và sinh hoạt cô luôn là tấm gương trong việc giữ gìn môi trường lớp học sạch sẽ, bỏ rác vào thùng. Thường xuyên cùng trẻ vệ sinh trong và ngoài lớp vào ngày cuối tuần, lau dọn đồ dùng đồ chơi, nhổ cỏ, chăm sóc các chậu hoa kiểng ở góc thiên nhiên của lớp và vườn hoa, vườn rau trong sân trường, nhặt rác và lá rơi để tạo mĩ quan trường học “xanh – sạch – đẹp”. Được giúp cô trẻ cảm thấy mình đang làm việc quan trọng và rất có ích, trẻ thích được làm việc cùng cô và nhiệm vụ cô phân công… từ đó hình thành cho trẻ thói quen, nề nếp giữ vệ sinh chung.
Ví dụ:Cô đến lớp cất dép ngọn ngàng,cất đồ dùng của cô đúng nơi quy định. Trong các giờ ăn cô chuẩn bị khăn ướt, đĩa đựng cơm rơi, bàn ghế sạch sẽ. Trước giờ ăn cô rữa tay sạch sẽ trước khi chia cơm, thức ăn …..Luôn giữ ìn vệ sinh chung như bỏ rác đúng nơi quy định ,không vứt rác bừa bãi ra lớp ra sân. Trong các giờ học cô luôn cất đồ dùng đồ chơi ngọn nàng đúng nơi quy định.
Biện pháp3: Hướng dẫn trẻ làm 1 số việc tự phục vụ vừa với sức của mình.
Lao động tự phục vụ là hình thức lao động nhằm thỏa mãn những nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày ,nhằm chăm sóc cho bản thân mình . Khi ở lớp cô cần khuyến khích và cho trẻ thử làm những việc vừa sức. Chẳng hạn tự đi lấy nước, tự dọn dẹp đồ chơi,tự lau mặ, tự lấy dép… Đừng làm thay con tất cả mọi việc,nếu có thể hãy sắp xếp một “công việc” cụ thể cho bé. Ví dụ khi chuẩn bị ăn, bé sẽ phải tự lấy muỗng, khi đi tắm, bé phải tự chọn và lấy quần áo, …dần dần trẻ nhận ra mình có thể tự làm nhiều việc và sẽ rất hào hứng với điều đó.Để bé tự làm rồi quan sát để biết vướng mắc chỗ nào rồi chỉ dẫn bé cách làm đúng.Tập dần từng việc, từ tự ăn, tự mặc quần áo, tự dọn dẹp đồ đạc…hoặc để trẻ tự do làm điều gì trẻ thích chứ không nên ép buộc phải tự lập đồng bộ.

Không tỏ ra sốt ruột khi trẻ thất bại nhiều lần bởi như vậy sẽ gây áp lực và khiến trẻ mất hết tự tin.Tùy vào khả năng của trẻ để rèn giũa, nhanh chậm không quan trọng mà vấn đề là trẻ làm được gì.Ở tuổi lên ba trẻ đã hình thành và phát triển ý thức “Cái tôi” của mình, trẻ tích cực tìm hiểu các sự vật, hiện tượng xung quanh, trẻ rất muốn tự làm mọi việc để khẳng định mình.Ý thức này chi phối phần lớn các hoạt động trong ngày của trẻ. Vì vậy tôi luôn tôn trọng và thỏa mãn nhu cầu tự lập của trẻ kết hợp sử dụng phương pháp khích lệ động viên trẻ.

VD: Có bạn không tự xúc cơm trong giờ ăn mà chờ cô đến xúc cho tôi đến bên trẻ động viên khuyến khích trẻ tự làm “Trâm Anh giỏi quá đã tự xúc được cơm ăn rồi, con xúc ít một thôi nhé và phải nhai luôn không nên ngậm cơm mà sâu răng đấy”.Hay tới lớp trẻ rất thích được tự cởi giày, dép và tự cất lên giá dù mỗi lần trẻ làm công việc đó rất lâu những lần như vậy tôi luôn đứng bên cạnh chờ đợi trẻ kết hợp động viên trẻ “Thảo My giỏi quá giày khó cởi thế mà con làm được rồi”.. Tôi nghĩ nếu tôi thấy sốt ruột việc trẻ mà làm hộ trẻ, thì dẫn đến trẻ sẽ ỉ lại, không tự làm và luôn chờ đợi sự giúp đỡ của cô trong mỗi giờ ăn.
Ở trẻ 3 tuổi nhu cầu được tự khẳng định mình phát triển rất mạnh ,thậm chí lấn áp cả 1 số nhu cầu của trẻ. Cho nên trẻ thường tỏ ra bướng bỉnh,khôn nghe lời nười lớn,luôn muốn làm theo ý thích của mình . Những lúc đó tôi rất thông cảm và hiểu được “bướng bỉnh” ở lứa tuổi này và không kìm hãm ý muốn tự lập của trẻ. Khi trẻ thực hiện công việc đó mất rất nhiều thời gian, không theo mong muốn của tôi, đôi khi còn bừa bãi thậm chí còn hỏng việc. Song tôi vẫn luôn tạo điều kiện để trẻ tự làm, tự trải nghiệm công việc.
VD: Như lớp tôi có một số trẻ rất thích giúp cô chia thìa vào bát và đặt vào các bàn, nhưng loay hoay mãi không biết chia như thế nào, có khi còn chia thiếu, rồi làm rơi hết thìa xuống sàn. Mỗi lần như vậy tôi không tỏ ra khó chịu mà nhẹ nhàng đến bên trẻ dẫn trẻ vào từng bàn làm mẫu cách đếm bạn trong bàn và chia thìa tương ứng với số bạn trong bàn đó, sau đó tôi cho trẻ chia tiếp các bàn tiếp theo. Sau mỗi lần được tôi hướng dẫn động viên trẻ của tôi giờ làm rất thành thạo và trẻ nào cũng muốn được giúp cô.
Được tự tay làm những công việc mình thích tôi thấy trẻ rất phấn khởi, có thể lần đầu trẻ làm rất lâu mới song, nhưng các lần sau đó tôi thấy các thao tác của trẻ thành thạo rất nhiều, trẻ mạnh dạn tự tin hơn. Qua đó những kiến thức tự trải nghiệm của trẻ sẽ được mở rộng và khắc sâu hơn rất nhiều.
Trẻ 3 tuổi đã bắt đầu có khả năng tự mình làm một số công việc đơn giản, trẻ cũng có ý thức về điều đó và cũng có mong muốn được làm. Do hành động được lặp đi lặp lại hằng ngày,các kỹ năng tự phục vụ trẻ lĩnh hội vững chắc tạo điều kiện thuộn lợi cho trẻ nắm bắt kinh nghiệm thực tế và độc lập hành động.Tuy nhiên ,sự bắt đầu đối với trẻ luôn gắn với những khó khăn nhất định,giáo viên phải biết tổ chức quá trình lao động tự phục vụ cho trẻ,đưa nội dung phức tạp dần. Để trẻ đạt được việc tự lập hoàn toàn, tôi đã thực hiện các quá trình “Cùng rèn luyện” nghĩa là cho trẻ làm cùng cô. Khi cùng làm với trẻ tôi thường kết hợp giảng giải, giải thích cho trẻ biết lý do và cách thức hành động.
VD: Khi trẻ mới đến trường phải cất đồ dùng cá nhân vào đúng ngăn tủ có kí hiệu của mình, tôi đi cùng trẻ đến ngăn tủ đó và chỉ cho trẻ nhận ra đây là ngăn tủ của trẻ có kí hiệu “Con sẽ cất ba lô, quần áo của con vào trong đó trước khi cất con phải gấp quần áo gọn gàng đã nhé”. Tôi còn giải thích cho trẻ khi cất đúng ngăn của mình thì khi đến giờ về lấy rất dễ dàng. Hoặc khi ngủ dậy trẻ tự cất chăn gối của mình vào đứng ngăn tủ có kí hiệu của mình.Không những vậy ngày nào tôi cũng cho trẻ phải chăn gọn gàng rồi mới được cất vào ngăn tủ. Sau một, hai lần tôi nhắc nhở và ngày nào trẻ cũng được thực hành các thao tác đó nên trẻ cất và lấy đồ dùng rất thành thạo và không cần đến sự giúp đỡ của người lớn nữa.
Như trong các giờ ăn, một số trẻ rất thích được giúp cô bê cơm vào bàn cho bạn, còn một số trẻ khác thấy các bạn được làm thì tỏ ra rất thích nhưng bản thân lại không biết làm hoặc lo sợ mình sẽ làm đổ bát. Nắm được tâm lí của trẻ tôi đã động viên các trẻ đó cùng làm với bạn.
VD: Trước giờ ăn tôi thấy cháu Đức Anh rất thích bê cơm vào bàn cho bạn giúp cô giáo nhưng cháu lại sợ mình không chia đúng nên không giám giơ tay xin làm, thấy vậy tôi nói với cháu “Con sẽ giúp cô bê cơm vào cho các bạn cùng với bạn My nhé.” Thấy tôi nói như vậy thì Đức Anh rất vui và ra làm cùng bạn. Cứ như vậy hằng ngày tôi đều hỏi trẻ ai muốn giúp cô chia thìa, hay chia cơm vào bàn cho các bạn nào? Đa số trẻ lớp tôi đều sung phong muốn làm giúp cô. Để trẻ nào cũng được làm mỗi ngày tôi nhờ một nhóm trẻ khác nhau giúp mình. Thế là cả lớp tôi trẻ nào cũng thành thạo tất cả các kỹ năng cần thiết để hình thành nhân cách sau này cho trẻ.
Để giúp trẻ thực hiện được các thói quen tự phục vụ một cách phấn khởi và nhớ lâu tôi đã kết hợp lồng ghép những bài thơ, bài hát có ý nghĩa giáo dục giữ gìn vệ sinh để trẻ dễ dàng thực hiện các kỹ năng đó.
VD: Trước giờ ăn tôi cho trẻ hát các bài hát chủ đề bản thân lồng ghép giáo dục trẻ việc giữ vệ sinh thân thể hay cho trẻ đọc bài thơ: Rửa tay, rửa mặt, giờ ăn, giờ ngủ, giờ chơi……..
Thời gian đầu năm tôi vừa làm mẫu kết hợp phân tích cách làm các kỹ năng cần thiết, sau đó tôi cho trẻ tự làm, chỉ nhắc nhở bằng lời đối với những trẻ nhút nhát, và tôi cho trẻ thường xuyên được thực hành các kỹ năng đó (Tự rửa tay, rửa mặt, xúc miệng nước muối, tự cởi và gấp quần áo, tự cất và lấy dép đúng nơi qui định…)

Biện pháp 4: Tổ chức lồng ghép giáo dục tính tự lập vào các hoạt động.
Tính tự lập của trẻ được trải nghiệm trong các hoạt động, trong sinh hoạt hàng ngày ở gia đình và nhà trường. Đối với trẻ lên ba đã bắt đầu có khả năng làm một số việc đơn giản, trẻ đã có ý thức về điều đó và luôn chứng tỏ khả năng của mình trong sinh hoạt hàng ngày. Trong giờ học đối với các hoạt động cần đến đồ dùng của trẻ, tôi chỉ chuẩn bị đồ dùng đặt sẵn trên bàn sau đó cho trẻ tự lên lấy đồ dùng học tập về vị chí ngồi của mình, kết thúc tiết học cũng vậy tôi cho trẻ tự cất đồ dùng học tập đúng nơi qui định.
Tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ theo hướng đổi mới thể hiện được mối quan hệ hợp tác giữa cô với trẻ, giữa trẻ với nhau, chúng phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí, đặc biệt là nhu cầu và hứng thú của trẻ trong hoạt động. Trong suốt thời gian trẻ tham gia hoạt động cần duy trì tính hấp dẫn của nhiệm vụ, tạo cho trẻ có hứng thú và niềm say mê khám phá thế giới thông qua các trò chơi và các hoạt động tìm tòi khám phá. Trẻ chủ động tích cức tham gia các hoạt động trải nghiệm, các tình huống khác nhau của cuộc sống. Dần dần trẻ trở nên tích cực chủ động, linh hoạt và tự tin trong mọi hoàn cảnh.
VD: Trong giờ học toán tôi đã chuẩn bị rổ đồ dùng cho mỗi trẻ nhưng tôi đặt chung vào một bàn tôi cho mỗi trẻ lên lấy một rổ về chỗ của mình để học. Hay trong giờ học tạo hình,góc tạo hình cần đến màu tôi thường nhờ trẻ chuẩn bị bàn học và màu cho các bạn.
Được tự lấy đồ dùng học tập như vậy tôi thấy trẻ rất tích cực, hứng thú học và luôn muốn khám phá xem mình được học gì ở các đồ dùng đó, giờ học nào của lớp tôi đều thấy trẻ hứng thú từ đầu giờ học đến cuối giờ học. Qua đó tôi còn rèn luyện cho trẻ thói quen gọn gàng ngăn nắp, lấy đâu cất đấy.
Là một giáo viên mầm non chắc hẳn ai cũng biết mỗi khi đến giờ hoạt động hoạt động góc và hoạt động ngoài trời trẻ đều tỏ ra rất thích thú, phấn khởi, mong chờ nhất. Không những vậy hoạt động vui chơi là hoạt động quan trọng nhất nó giữ vai trò chủ đạo ở lứa tuổi này, qua hoạt động này làm biến đổi về chất trong toàn bộ đời sống tâm lý của trẻ. Vì vậy đối với trẻ ở lứa tuổi này, đồ vật không phải là thứ để trẻ nghịch như trước đây mà bây giờ qua chơi với đồ vật, đồ chơi giúp trẻ khám phá chức năng và phương thức sử dụng tương ứng (như cái thìa dùng để xúc cơm ăn và có cách cầm thìa nhất định…) Chính vì vậy tôi rất chú trọng việc tạo điều kiện cho trẻ được chơi với đồ vật, đồ chơi và chơi với bạn bè. Ngoài ra trong quá trình chơi với đồ vật trẻ còn bắt chước thao tác của người lớn. Trò chơi thao tác vai cuốn hút trẻ và làm xuất hiện nhu cầu có bạn cùng chơi trò chơi đóng vai đơn giản (trẻ bắt chước mẹ bé em, nấu ăn, bán hàng, phân công vai chơi….) Khi tổ chức cho trẻ chơi ở giai đoạn đầu năm tôi hướng dẫn tỉ mỉ, cẩn thận, không nôn nóng, chủ động tham gia chơi với trẻ trong các trò chơi, tạo tình huống cho trẻ chơi.
VD: Trong góc chơi nấu ăn tôi đặt câu hỏi gợi ý cho trẻ “Các bác ơi hôm nay nhà mình nấu những nón ăn gì? Nấu nón đó mà không có thực phẩm thì phải làm thế nào? Hay thấy trẻ đi mua cá về tôi lại hỏi trẻ có cá rồi bác định làm món cá gì? Trước khi dán bác nên làm gì?” Bằng những câu hỏi gợi mở và tạo tình huống cho trẻ tôi đã làm tăng vốn hiểu biết của trẻ và làm giàu trì tưởng tượng sáng tạo của trẻ.Hoặc ở góc chơi kỹ năng mỗi tháng cô thay đổi các kỹ năng khác nhau như : Xúc hạt, gấp quần áo , chải tóc , đánh răng , rót nước…..để rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ .
Từ những giai đoạn sau khi tổ chức cho trẻ chơi tôi không can thiệp quá sâu vào trò chơi của trẻ để trẻ bộc lộ khả năng tự lập của mình. Khi trẻ tự chơi với các đồ chơi thì trẻ cũng lĩnh hội được những qui tắc hành vi ứng xử trong xã hội ẩn chứa trong quá trình hành động đó. Từ đó trẻ học được cách tự lập trong các thao tác hành động với đồ vật, giúp trẻ tự tin, tự lập hơn trong cuộc sống.Hàng ngày tôi thường chú trọng dạy trẻ những hành vi văn hóa trong ăn uống qua đó rèn kỹ năng lao động tự phục vụ và kỹ năng giúp đỡ người khác như: Biết rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn, biết cách sử dụng những đồ dùng vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, biết mời trước khi ăn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, ăn hết suất …Hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp,biết dọn dẹp đồ chơi gọn gàng khi chơi xong tại các góc chơi,biết ngồi ngay ngắn khi vào bàn không làm ảnh hưởng đến người khác. Khi ra sân trong giờ hoạt động lao động phải biết nhặt rác bỏ vào thùng, tươi cây, nhặt cỏ, lau lá cây.. Từ đó trẻ sẽ hiểu và học tập theo cô, dần dần hoạt động có ý thức đó sẽ trở thành kỹ năng giúp trẻ thực hiện hoạt động một cách tự nguyện mà không có cảm giác ép buộc. Trẻ còn cảm thấy vui vì đã làm được một việc nên làm giống như lời cô dạy.
Biện pháp 5: Lồng ghép ứng dụng công nghệ thông tin giáo dục tình tự lập cho trẻ
Công nghệ thông tin là phương tiện hữu ích góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học. Việc ứng dụng CNTT trong chăm sóc giáo dục trẻ được xem là ưu tiên hàng đầu của ngành Giáo dục mầm non. Trong những năm qua ngành giáo dục mầm non đã triển khai việc ứng dụng CNTT trong các hoạt động chăm sóc giáo dục và các hoạt động khác một cách tích cực về mọi mặt và đã gặt hái được nhiều thành quả đáng khích lệ. Đối với học sinh thuộc 7 xã miền núi điều kiện kinh tế còn đác biệt khó khăn ,nên CNTT được áp dụng vào giảng dạy càng thu hút được sự tò mò và hứng thú của trẻ.Thông qua việc ứng dụng CNTT trẻ được học tập vui chơi theo hướng phát huy tính tích cực học tập của trẻ và làm phong phú hơn kỹ năng dạy học,tính giáo dục cao, hấp dẫn, kích thích nhận thức của trẻ, tạo điều kiện phát triển các kỹ năng nhóm: giao tiếp, chia sẻ, tự giải quyết vấn đề….Đơn giản là các hình ảnh đưa lên máy sử dụng các hiệu ứng, màu sắc phù hợp cũng đã gây sự chú ý của trẻ.
Ví dụ: Với tuần học về gia đình cô cho trẻ xem hình ảnh về bạn nhỏ trong gia đình tự mắc quần áo, tự đi dép,…Hoặc cho trẻ xem hình ảnh,các video dạy trẻ các kỹ năng sống đơn giản gần gũi với trẻ.

BIỆN PHÁP 6: yên truyền với phụ huynh cùng giáo dục tính tự lập cho trẻ.
Theo tiến sĩ tâm lý Nguyễn Kim Quý, Hội tâm lý Giáo dục Việt Nam, bố mẹ nào cũng lo lắng cho con và muốn chăm sóc con tốt nhất, nhưng nuông chiều, làm thay con mọi việc chỉ tạo cho trẻ thói quen ỉ lại và gặp khó khăn khi hòa nhập với môi trường mới.Bà cho rằng, dạy con tự lập bắt đầu từ lúc trẻ còn rất nhỏ, và điều quan trọng là người mẹ phải vượt qua được chính mình. “Chỉ một việc nhỏ là rèn con ăn nhưng không phải ai cũng làm được. Người thì sợ con xúc lâu, làm đổ đồ ăn, người lại xót xa sợ con đói, ăn không đủ”, nhà tâm lý chia sẻ.Theo bà, trong việc này, nên cho trẻ ăn cùng bữa với các thành viên trong gia đình, hướng dẫn con cách xúc, ban đầu bé có ăn lâu hay làm rơi vãi đồ ăn thì cũng không cần quá bận tâm. Sau khi cả nhà đã ăn xong, cho con thêm 15-20 phút nữa, nếu trẻ không ăn hết cũng dọn đi, không cần ép bé hay tỏ ra sốt ruột, quát mắng.Nhà tâm lý cho biết, trẻ con rất “nhạy”, nếu thấy bố mẹ quá sốt sắng, nuông chiều, các cháu sẽ sinh yêu sách, ỷ lại.Như chúng ta đã biết thời gian trẻ đến trường nhiều hơn rất nhiều so với thời gian ở nhà. Những bài học trẻ được học ở trường giúp trẻ phát triển đúng yêu cầu ở độ tuổi, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần và nhận thức, giúp trẻ tự tin, mạnh dạn, tích cực và chủ động khi tham gia các hoạt động cùng cô và bạn.
Tuy nhiên để công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở trường đạt kết quả tốt nhất, tránh trường hợp cô giáo ở lớp thì giáo dục trẻ tính tự lập, còn về nhà cha mẹ lại luôn làm giúp trẻ mọi việc. Chính vì không muốn tình trạng đó xảy ra nên tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh trong những giờ đón trả trẻ, trong các buổi họp phụ huynh về mọi vấn đề có liên quan đến trẻ ở trường và đặc biệt là giáo dục tính tự lập cho trẻ. Bởi không phải phụ huynh nào cũng có nhận thức đúng đắn về vấn đề đó.
Một số phụ huynh có nhiều vướng mắc khi giáo dục tính tự lập cho trẻ là do thời gian dành cho trẻ còn hạn chế, trong nhiều gia đình thì không thống nhất được quan điểm giáo dục trẻ, bố, mẹ thì muốn con tự làm những công việc vừa sức, nhưng ông, bà sợ cháu mệt thì làm hộ trẻ dẫn đến kết quả của việc rèn tính tự lập cho trẻ chưa thành công. Một số phụ huynh khác thì có ý kiến hoàn toàn nhờ cô giáo chủ nhiệm, chứ về nhà bố, mẹ nói trẻ không nghe lời.
Tôi luôn tuyên truyền với phụ huynh hiểu thế nào là cho trẻ tự lập, tự làm những việc trong khả năng của trẻ, bố mẹ chỉ là người làm mẫu và hướng dẫn trẻ làm không nên làm giúp trẻ, hay khi trẻ đã biết làm rồi thì người lớn nên khuyên khích động viên trẻ, cho trẻ rèn luyện tính tự lập đó nhiều lần để trở thành các kỹ năng cần thiết trong cuộc sống của trẻ.
VD: Tôi thấy một số trẻ lớp tôi rất được bố mẹ nuông chiều không bao giờ tự làm một việc gì, đến lớp thì đợi cô và bạn làm giúp đỡ như cháu Trâm anh,Nhi , Đức Anh. Tôi đã trò chuyện với phụ huynh để họ nắm bắt được tình hình của con mình và tôi tuyên truyền cho họ các phương pháp về giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ nhỏ để phụ huynh có thể áp dụng tại gia đình. Tôi có thể gợi ý cho họ về cách giáo dục trẻ tự lập “Anh chị cứ để trẻ tự cất dép ,tự cất đồ dùng các nhân các cháu sẽ tự làm được để tính tự lập được phát huy tích cực ….”Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát ý thức của trẻ trong các điều kiện và tình huống hàng ngày như quan sát xem trẻ có biết tự đi rửa tay bằng xá phòng khi thấy tay bẩn chưa, hay sau khi đi vệ sinh đã biết xả nước chưa, sau khi chơi xong có biết tự đi cất đồ chơi gọn gàng hay cần bố mẹ nhắc nhở, giúp đỡ, khi người lớn nhờ trẻ lấy giúp ly nước, bật ti vi, thì biểu hiện của trẻ ra sao. Trẻ có thích tự xúc cơm, tự mặc chuẩn bị quần áo khoác, hay không….để từ đó có những biện pháp rèn luyện và giáo dục trẻ thêm.
Trong gia đình việc tạo môi trường tự lập cho trẻ là rất cần thiết. Vì vậy người lớn trong gia đình cần tạo ra các tình huống để thu hút trẻ làm nhiều hơn như: Dọn đồ chơi, nhặt rau cùng mẹ, tự xúc cơm ăn. Khi làm một việc gì cùng trẻ nên phân tích, giảng giải cho trẻ biết lý do và cách thức hành động. Tạo điều kiện cho trẻ tham gia vào bất kỳ việc gì trẻ muốn (phơi quần áo mẹ nhờ bé đưa dần cho mẹ tất, quần áo của bé…để mẹ phơi lên dây….) Tuy có mất thời gian một chút, nhưng sự kiên nhẫn của người lớn là chìa khóa thành công của trẻ, dần dần sẽ hình thành trẻ tính tự giác, tính tự quyết định, khả năng tự xoay sở của mình. Nhờ có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên với cha mẹ trẻ mà tôi thấy trẻ của lớp tôi luôn có tính tự lập cao, trẻ mạnh dạn tự tin, các kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng giữ gìn vệ sinh, kỹ năng giúp đỡ người khác luôn thành thạo và rất vui vẻ nhiệt tình khi được tự lập.Có thể nói rằng để nâng cao tính tự lập cho trẻ thì đòi hỏi người giáo viên phải có những biện pháp hữu hiệu nhất để giúp trẻ được tốt hơn.
4.5. Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến (đã được áp dụng, kể cả áp dụng thử trong điều kiện kinh tế – kỹ thuật tại cơ sở; khả năng áp dụng cho những đối tượng, cơ quan, tổ chức khác):
Những giải pháp mà bản thân thực hiện điều dựa vào tình hình cơ sở vật chất, khả năng tiếp thu của các cháu, sự đồng thuận phối hợp cùng giáo dục của các bậc phụ huynh tại đơn vị Trường MN Đại Hòa.
Sáng kiến này có khả năng áp dụng cho những đơn vị giáo dục mầm non trên địa bàn huyện Đại Lộc
5- Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không
6- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: Lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến này là:
Qua những biện pháp trên, để thực hiện tốt, nâng cao hiệu quả giáo dục tính tự lập cho trẻ, bản thân tôi đã nắm được nội dung, phương pháp để dạy cho trẻ.
+ Đối với trẻ:
Bằng các biện pháp khác nhau trẻ được thực hành, trải nghiệm, được tự thỏa mãn nhu cầu tự lập của trẻ tôi thấy học sinh lớp tôi rất hứng thú tham gia các hoạt động của lớp, và đặc biệt trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong mọi hoạt động, các kỹ năng tự phụ vụ, kỹ năng giữ gìn vệ sinh, kỹ năng giúp đỡ mọi người trở nên tốt hơn, không cần cô giáo phải nhắc nhở nhiều mà trẻ thực hiện một cách tự nguyện và thích thú.
VD: Các hoạt động: Tự gấp quần áo và cất đúng nơi qui định, tự rửa tay, rửa mặt trước khi ăn, biết tự xả nước sau khi đi vệ sinh và biết rửa tay bằng xà phòng, chuẩn bị bàn ăn, giường ngủ cùng cô, nhặt rác bỏ vào thùng rác… tích cực tham gia vào các hoạt động của tập thể, của lớp. Từ đó những thói quen tốt của trẻ được hình thành và sẽ phát triển bền vững.
+ Đối với giáo viên:
– Sau khi thực hiện những biện pháp trên tôi thấy trẻ đã có tính tự lập, đã có những kỹ năng cần thiết phù hợp với độ tuổi. Trẻ tự tin, mạnh dạn khi tham gia các hoạt động giúp cho việc tổ chức các hoạt động giáo dục của cô giáo đạt kết quả tốt.
-Cô tìm ra một số biện pháp cụ thể phát huy tính tự lập cho trẻ.
+Đối với phụ huynh:
– Phụ huynh luôn hưởng ứng và thường xuyên trao đổi với cô giáo về những phương pháp để cùng rèn tính tự lập cho trẻ và rất tin tưởng cô giáo bởi họ nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của con mình.
– Một số phụ huynh trước đây thường chiều con, sẵn sàng làm hết mọi việc cho trẻ, không muốn con mình phải làm gì vì họ cho rằng con họ còn nhỏ nay họ rất nhiệt tình phối hợp và yên tâm mỗi khi đưa con tới lớp.
Sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (lợi ích kinh tế, xã hội so với trường hợp không áp dụng giải pháp đó ; hoặc so với những giải pháp tương tự đã biết ở cơ sở hoặc số tiền làm lợi):
8- Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):

TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác (hoặc nơi thường trú) Chức danh Trình độ chuyên môn Nội dung công việc hỗ trợ
1
2
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Xác nhận và đề nghị của
cơ quan, đơn vị tác giả công tác Đại Hòa, ngày 28 tháng 11 năm 2023. Người nộp đơn

Nguyễn Thị Thảo

Cảm nhận của Phụ huynh

Chị Nguyễn Thị Hoài Thu – Phụ huynh bé: Nguyễn Huỳnh Linh Đan – Lớp lớn

Con tôi rất nhút nhát, do công việc bận rộn gia đình cũng không có thời gian để tạo điều kiện cho bé thường xuyên tiếp xúc với môi trường bên ngoài nên bé ngại giao tiếp hơn. Do đó khoảng thời gian đầu cho bé đi học là quãng thời gian khó khăn cho cả bé và gia đình. Tôi đã từng khóc khi thấy bé đứng thút thít do không thuộc những động tác thể dục buổi sáng… Thời gian trôi thật mau, giờ bé đã nên người và tự tin hơn rất nhiều, bé lại có thể phát huy được năng khiếu múa hát. Tất cả là nhờ sự yêu thương, gần gũi của các cô đã làm cho bé tìm được niềm vui khi đến lớp.