Website Trường Mầm Non Đại Hòa – Đại Lộc – Quảng Nam

Báo cáo sáng kiến- Đề tài: Một số biện pháp giáo dục trẻ học tốt môn làm quen văn học- Tác giả: Phan Thị Kiều Linh- Giáo viên trường MN Đại Hòa

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Trường Mầm Non Đại Hòa
Tôi (chúng tôi) ghi tên dưới đây:
TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác (hoặc nơi thường trú) Chức danh Trình độ chuyên môn Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến
1 Phan Thị Kiều Linh 1985 Trường MN Đại Hòa Giáo viên Đại học 100%
Là tác giả (nhóm tác giả) đề nghị xét công nhận sáng kiến: Một số biện pháp giáo dục trẻ học tốt môn làm quen văn học.
1.Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Phan Thị Kiều Linh
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi Trường Mầm non Đại Hòa, Đại Lộc, Quảng Nam.
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Ngày 05 tháng 10 năm 2018
4. Mô tả bản chất của sáng kiến:
Sáng kiến kinh nghiệm ” Một số biện pháp giáo dục trẻ học tốt môn làm quen văn học” lần đầu áp dụng với lớp lớn 2 trường MN Đại Hòa do tôi chủ nhiệm đã mang lại kết quả rất cao. Ở độ tuổi mẫu giáo, trẻ mới bắt đầu trong việc học nói, học làm người. Do đó hoạt động phát triển ngôn ngữ sẽ giúp trẻ hình thành và phát triển tốt về lĩnh vực ngôn ngữ, giúp trẻ tìm hiểu về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em. Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 5 – 6 tuổi nói riêng, trẻ rất nhạy cảm với nghệ thuật ngôn từ, âm điệu, hình tượng của các bài hát ru, đồng dao, ca dao, dân ca sớm đi vào tâm hồn tuổi thơ qua lời ru của bà, của mẹ. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại đặc biệt hấp dẫn trẻ. Chính vì vậy cho trẻ tiếp xúc với hoạt động phát triển ngôn ngữ và đặc biệt là hoạt động dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện theo tranh, kể chuyện sáng tạo là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất, hiệu quả nhất.
Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện để hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh, để giáo dục trẻ phát triển một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hoá. Hoạt động phát triển ngôn ngữ còn là phương tiện để hình thành đạo đức, nhân cách và kỹ năng sống cho trẻ và nhận thức được tầm quan trọng của việc giúp trẻ cảm nhận và học tốt môn LQVH, từ đó sẽ giúp trẻ phát triển toàn diện về 5 lĩnh vực: Phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, phát triển thẫm mĩ, phát triển tình cảm xã hội.
4.1. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết (Phân tích ưu, nhược điểm)
*Ưu điểm:
*Đối với giải pháp 1:
Giáo viên chú trọng trong việc trang trí môi trường trong và ngoài lớp học tạo cơ hội cho trẻ học mà chơi – chơi mà học. Ngoài ra việc làm đồ dùng đồ chơi phong phú theo chủ đề sẽ gây hứng thú cho trẻ khi tham gia hoạt động làm quen văn học.
*Đối với giải pháp 2:
Trong các hoạt động cô giáo phải chú ý đến tâm sinh lý từng trẻ và hơn thế nữa cô giáo phải chuẩn bị các đồ dùng đồ chơi mới lạ, vật thật, màu sắc hấp dẫn để thu hút trẻ, qua đó giúp trẻ hứng thú tham gia hoạt động.
* Đối với giải pháp 3:
Việc thiết kế nội dung các hoạt động bằng những trò chơi trò chơi, kể chuyện sáng tạo hoặc cho trẻ đóng kịch theo nội dung câu chuyện. Giúp trẻ cảm nhận được một câu chuyện hay, một bài thơ có tính giáo dục trẻ trong cuộc sống hắng ngày, và cũng giúp trẻ nhận biết được cái hay, cái đẹp thông qua nội dung của các bài thơ, câu chuyện. Bằng những hình tượng ngôn ngữ phong phú, qua đó giáo dục trẻ lòng yêu quê hương, đất nước, con người.
*Đối với giải pháp 4:
Trong hoạt động LQVH, sẽ phát huy tính tích cực, chủ động của trẻ, tổ chức các hoạt động vừa sức tiếp thu của trẻ. Trẻ được tiếp thu hướng tích cực, học đi đôi với hành, chú ý đến sự phát triển cá nhân, giáo dục gắn liền với thực tế cuộc sống… nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện nhân cách cho trẻ.
*Đối với giải pháp 5:
Thực hiện Thông tư số 28/2016/TT-BGDĐT ngày 30/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo việc phát huy tính tích cực của trẻ và trong các hoạt động phải lấy trẻ làm trung tâm. Xác định được tầm quan trọng đó nên bản thân đã tận dụng, sưu tầm hình ảnh từ họa báo, đồ dùng bị hỏng… tạo nên một góc chơi có tên là “ Vườn cổ tích”. Ở góc chơi này, trẻ biết sáng tạo,tự phát huy ý tưởng của mình để sáng tạo ra các bài thơ, câu chuyện theo ý tưởng của mình.
*Nhược điểm:
– Một số phụ huynh sống bằng nghề nông, buôn bán nên điều kiện và thời gian quan tâm đến trẻ chưa nhiều, không được đầy đủ như những trẻ khác.
– Năm nay, được sự phân công đứng lớp lớn trong đó có một số cháu chưa có nề nếp học tập cũng như kiến thức của trẻ còn hạn chế, rụt rè, giọng nói chưa chuẩn, còn mang đậm chất giọng địa phương, vốn từ nghèo nàn nên gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động cho trẻ kể chuyện, đọc thơ.
4.2 Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm của giải pháp đã biết:
*Biện pháp nhằm khắc phục nhược điểm:
Thường xuyên phối hợp với phụ huynh trong việc rèn luyện cách nhận biết và phát âm chữ cái cho trẻ
Muốn dạy trẻ học tốt hoạt động LQVH thì việc phối kết hợp với phụ huynh để rèn luyện cách phát âm cho các cháu là rất cần thiết. Tôi đã làm bảng tin tuyên truyền về chương trình dạy theo chủ đề và thay tin hàng tuần để phụ huynh biết, trong bảng tuyên truyền này tôi đã ghi rõ nội dung của từng câu chuyện, bài thơ, vè, đồng dao, để phu huynh nắm được nội dung và phối hợp với giáo viên rèn luyện thêm cho trẻ ở nhà.
– Vận động phụ huynh hỗ trợ vật phế phẩm: thùng giấy, sách báo cũ, chuyện đọc, chuyện tranh, hoặc những đồ dùng đồ chơi do phụ huynh tự làm, dụng cụ hóa trang…
– Tôi thường trao đổi, động viên phụ huynh cố gắng dành thời gian để tâm sự với trẻ và lắng nghe trẻ nói. Khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng mạch lạc, tốc độ vừa phải để trẻ nghe cho rõ.
– Cha mẹ, người thân cố gắng phát âm đúng để trẻ bắt chước.
– Khuyến khích hặc tuyên truyền với phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ. Tránh không nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngôn ngữ không chính xác.
Mặt khác tôi còn vận động phụ huynh mua thêm sách truyện tranh có liên quan đến chủ đề mà trẻ đang học để giáo viên xây dựng góc thư viện tại lớp.
Đối với những cháu có cha mẹ đi làm ăn xa, cháu ở nhà với ông bà thì ở lớp khi tổ chức ôn luyện chữ cái tôi chú ý đến cháu nhiều hơn.
4.3. Nêu các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng giải pháp:
Về điều kiện:
Giáo viên và phụ huynh phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc giáo dục cho trẻ học tốt môn làm quen văn học
Về phương tiện:
Trong tiết dạy giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, tận dụng những nguyên vật liệu, phế liệu để làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ.
4.4 Nêu các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp (nhằm để giải quyết các vấn đề đã nêu trên)
Biện pháp 1: Xây dựng môi trường cho trẻ và cung cấp đầy đủ đồ dùng, đồ chơi nguyên vật liệu cho trẻ hoạt động:
Tạo môi trường cho trẻ hoạt động phát triển ngôn ngữ là một vấn đề rất cần thiết trong chương trình đổi mới hình thức chăm sóc giáo dục hiện nay, nếu giáo viên tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ, tham gia vào các hoạt động và kết quả đạt được rất cao. Vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã đi sâu vào tạo môi trường học tập cho trẻ bằng cách đưa hình ảnh nhân vật của các câu chuyện nổi bật vào góc “Bé thư giản” và một số góc trong và ngoài lớp học thể hiện trên các mảng tường. Vẽ và sưu tầm một số bộ truyện tranh ngoài chương trình để đưa vào giảng dạy, vận động phụ huynh đóng góp truyện tranh đưa vào góc “thư viện của bé” cho trẻ hoạt động thường ngày. Những câu chuyện được thể hiện trên các mảng tường trong không gian to đã giúp trẻ dễ tri giác, trẻ được thảo luận, bàn bạc về câu chuyện đó. Từ đó trẻ biết vận dụng những kiến thức đó vào kể chuyện đọc thơ một cách linh hoạt dễ dàng hơn. Tất nhiên có thể lúc đầu trẻ đọc theo trí nhớ, trẻ nhớ về nội dung câu chuyện cô đã kể rồi tự kể khớp với nội dung câu chuyện mà trẻ tri giác.
Ví dụ: Chủ đề trường mầm non tôi cho trẻ xem chuyện tranh
Qua hình ảnh trong tranh trẻ có thể tự mình kể ra một câu chuyện có nội dung tương tự, không cần phải theo nội dung của chuyện.
Ở lớp tôi có bố trí một góc chủ đề, đến mỗi chủ đề tôi trang trí các hình ảnh có nội dung về chủ đề và có các từ chỉ đồ vật, hiện tượng của tranh. Giờ hoạt động chiều tôi cho các cháu đến trò chuyện về chủ đề, đọc các câu từ ở các hình ảnh. Qua đó luyện phát âm, phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Việc tạo môi trường học tập cho trẻ rất quan trọng, trong quá trình giảng dạy tôi cần phải có sự thay đổi phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp với yêu cầu hiện nay, đưa công nghệ thông tin vào chương trình Giáo dục Mầm Non. Tôi luôn tìm tòi, sưu tầm những câu chuyện, bài thơ mới lạ, những hình ảnh sinh động, màu sắc hấp dẫn trẻ đưa vào powerpoint để dạy trẻ. Những câu chuyện hay, những hình ảnh đẹp sẽ giúp cho trẻ được trực quan hình ảnh. Từ đó trẻ sẽ khắc sâu hơn những kiến thức được học.
Ví dụ: Câu chuyện Dê con nhanh trí. Nếu chúng ta chỉ cho trẻ xem tranh minh họa và kể chuyện sẽ không gây hứng thú cho trẻ bằng hình thức trẻ được xem hình ảnh sinh động trên các slide có nội dung theo câu chuyên kể. Trẻ thấy được cảnh Dê mẹ dặn Dê con, cảnh chó sói đến nhà Dê con rồi cất tiếng gọi, hình ảnh Dê con đã nghe lời mẹ không mở cửa đến hình ảnh Chó Sói bỏ chạy…Tất cả các hình ảnh đó sẽ khắc sâu trong tâm trí trẻ giúp trẻ ghi nhớ và kể được chuyện cùng các bạn.
Tư duy của trẻ lứa tuổi này là tư duy trực quan hình tượng nếu như cô chỉ kể cho trẻ nghe nhiều lần bằng lời bằng lời thì trẻ sẽ nhanh chán và tiết học sẽ không những tạo cho trẻ có được tính nhanh nhẹ, thông minh, hoạt bát, sáng tạo không thu được kết quả cao. Trong quá trình trẻ thực hiện hoạt động ở trên lớp cũng như trong các hoạt động khác mà còn góp phần phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ mẫu giáo.
Đồ dùng trực quan phải đủ, đẹp, hấp dẫn, phù hợp với từng tiết học, đúng chủ điểm, trẻ phải có đồ dùng trực quan như cô để thao tác và sử dụng cùng một lúc với cô nhịp nhàng.
Chính vì thế ngoài việc đọc kể tác phẩm diễn cảm tôi còn làm thêm rất nhiều các loại đồ dùng trực quan. Các đồ dùng trực quan tôi chuẩn bị cho trẻ theo mức độ từ đơn giản đến phức tạp. Khi trẻ sử dụng thành thạo tôi động viên khuyến khích trẻ, nếu trẻ còn lúng túng chưa thành thạo trẻ sẽ được hướng dẫn tỉ mỉ và sẽ được sửa luôn nếu sai sót.
Để làm những con rối tôi tận dụng vải , bông… rồi khâu thành các nhân vật có đủ các bộ phận như mồm, mắt, tai, mũi… và trang trí quần áo the nội dung truyện. Với sân khấu tôi trang trí sân khấu với nội dung câu chuyện, phù hợp với hoạt cảnh nhân vật trong truyện.
Ngoài ra tôi sử dụng rối que để di chuyển một cách sinh động trên sân khâu giúp trẻ tập trung nghe cô kể, hướng thú tham gia các hoạt động, trẻ nhớ và hiểu nội dung câu chuyện nhanh hơn. Tôi còn làm những chiếc mũ với cá nhân vật để trẻ có thể đội và đóng thành các nhân vật đó.
Không những tôi tạo môi trường học tập trong lớp mà tôi còn tạo cho trẻ môi trường hoạt động ngay ngoài lớp học nh¬ư xây dựng cho trẻ “Góc thiên nhiên” ở ngoài hiên với nhiều loại cây hoa khác nhau. Qua đó giúp trẻ nhận biết đ¬ược màu sắc quen thuộc trong cuộc sống và trẻ sẽ học và liên tưởng đến những câu chuyện liên quan đến những loài cây, loài hoa. Từ đó trẻ tham gia giúp cô chăm sóc góc thiên nhiên. Ngoài ra tôi còn tận dụng những gì có sẵn trên sân trường để trẻ tiếp thu đ¬ược kiến thức và kĩ năng theo yêu cầu của ch¬ương trình đề ra.
– Tôi tận dụng tất cả những nguyên vật liệu có thể sử dụng làm đồ chơi: Sách báo, lịch cũ, lõi giấy vệ sinh, ống lon, chai nhựa, xốp, vải vụn, cành cây khô…làm đồ chơi phục vụ tiết học phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
– Dựa vào từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi một cách cụ thể, mỗi chủ đề đều có một bộ đồ dùng đồ chơi phục vụ cho quá trình giảng dạy và vui chơi của trẻ. Hàng tháng Tôi và các cháu đều sử dụng những vật liệu có sẵn như giấy vụn, các loại lá, các màu, hạt bột… để xé dán thành những cuốn tranh truyện do trẻ tự làm bằng những hình ảnh sưu tầm được, gợi ý cho trẻ tự kể chuyện theo trí tưởng tượng của trẻ.
Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy… Tôi hướng dẫn trẻ làm các con rối thật xinh xắn từ những câu chuyện cổ tích trẻ được học hoặc được nghe hoặc được làm các nhân vật theo sự sáng tạo của trẻ.
Khi kể chuyện tôi thường sử dụng những loại sách tranh truyện do đó việc vẽ trang trí cũng góp phần làm cho trẻ hứng thú khi nghe, xem hoặc muốn được sử dụng sách. Trẻ sẽ biết cách sử dụng sách và giữ gìn sách, tranh truyện hơn.
Biện pháp 2: Biện pháp tổ chức thực hiện giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc:
Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua bộ môn làm quen văn học, tôi cho trẻ kể lại truyện, chơi đóng kịch và đóng vai theo chủ đề.
* Dạy trẻ kể lại chuyện:
– Trẻ tái hiện lại một cách mạch lạc, diễn cảm tác phẩm văn học mà trẻ đã được nghe. Trẻ sử dụng nội dung, hình thức ngôn ngữ đã có sẵn của các tác giả và của giáo viên. Tuy nhiên yêu cầu trẻ không học thuộc lòng câu chuyện một cách tự do thoải mái nhưng phải đảm bảo nội dung cốt truyện.
– Yêu cầu đối với trẻ:
+ Kể nội dung chính của câu chuyện, không yêu cầu trẻ kể chi tiết toàn bộ nội dung tác phẩm. Lời kể phải có các cấu trúc ngữ pháp. Khuyến khích trẻ dùng ngôn ngữ chính của mình kể lại. Giọng kể diễn cảm, to, rõ, không ê a, ấp úng, cố gắng thể hiện đúng ngôn ngữ đối thoại hay độc thoại.
+ Chuẩn bị: Tiến hành trước giờ học, kể chuyện cho trẻ nghe. Trước khi kể cô giao nhiệm vụ trẻ ghi nhớ và kể lại.
+ Tiến hành : Đàm thoại về nội dung câu chuyện. Đàm thoại nhằm mục đích giúp trẻ nhớ lại nội dung câu chuyện, giúp trẻ xây dựng dàn ý câu chuyện kể,lựa chon hình thức gôn ngữ (cách dùng từ đặt câu)
Ví dụ: Truyện “Dê con nhanh trí” – Dê mẹ dặn dê con như thế nào?
Câu hỏi phải phù hợp với trẻ cả về hình thức ngữ pháp và nhận thức. Khi đàm thoại cô cần lưu ý giới thiệu cho trẻ biết thêm các từ đồng nghĩa những cụm từ thay thế để tạo điều kiện cho trẻ lựa chọn từ để kể.
Tôi dùng ngôn ngữ ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với nhận thức của trẻ kể lại nộ dung tác phẩm: Cô kể diễn cảm, lời kể có các mẫu câu cần luyện cho trẻ (mới). Mẫu truyện của cô có tác dụng chỉ cho trẻ thấy trước kết quả trẻ cần đạt được về nội dung, độ dài, trình tự câu chuyện.
Trẻ kể xong, cô nhận xét, đánh giá truyện kể của trẻ, không nên để đến cuối buổi trẻ sẽ quên mất những ưu, nhược điểm của mình hay của bạn. Cô cần nhận xét đúng, chính xác để có tác dụng khuyến khích, động viên trẻ,nhận xét cả về nội dung, ngôn ngữ tác phong.
* Chơi đóng vai theo chủ đề:
– Khi chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ phải tham gia vào các cuộc nói chuyện với bạn để phân vai, trao đổi với nhau trong khi chơi, trẻ bắt chước các nhân vật mà trẻ đóng vai, làm cho ngôn ngữ đàm thoại của trẻ thêm phong phú và đa dạng.
Ví dụ: Chủ đề gia đình- chơi nấu ăn: Trẻ tự phân vai chơi của mình: Mẹ đi chợ, nấu ăn, chăm sóc các con, ba đi làm.
* Chơi đóng kịch:
– Tổ chức cho trẻ chơi đóng kịch là một phương pháp tốt để phát triển ngôn ngữ đối thoại cho trẻ. Trẻ làm quen với các mẫu câu văn học đã được gọt giửa, chọn lọc. Khi đó trẻ cố gắng thể hiện đúng ngữ điệu, tính cách nhân vật mà trẻ đóng, giúp cho ngôn ngữ của trẻ mang sắc thái biểu cảm rõ rệt.
Ví dụ: Chủ đề gia đình, câu chuyện Tích Chu.
Cháu Thịnh đóng vai Tích Chu: Lúc đầu ham chơi, thái độ không vâng lời, sau biết lỗi tỏ thái độ nhận lỗi, giọng chầm (Bà ơi, bà đi đâu! Bà ở lại với cháu, cháu sẽ mang nước cho bà, bà ơi!)
Cháu Ánh Nguyệt đóng vai bà(giọng run run, rứt khoát) Bà đi đây! Bà không về nữa đâu!
Cháu Thùy đóng vai bà tiên (tính cách hay giúp đỡ mọi người, giọng dịu dàng,nhỏ nhẹ) Nếu cháu muốn bà cháu trở lại thành người thì cháu phải đi lấy nước suối tiên cho bà cháu uống. Đường lên suối tiên xa lắm cháu có đi được không?
* Dạy trẻ kể chuyện ở các hoạt đông khác:
* Hoạt động ngoài trời:
Dạy trẻ kể về những hiện tượng, sự kiện trong cuộc sống hàng ngày, những điều trẻ đã biết, tưởng tượng… Trẻ phải tự chọn nội dung, hình thức ngôn ngữ sắp xếp chúng theo một chật tự nhất định.
Tôi chủ yếu tập cho trẻ kể theo hai dạng: kể chuyện miêu tả, kể chuyện theo chủ đề.
* Kể chuyện miêu tả: Tôi dạy trẻ nêu tên, đặc điểm theo thứ tự khảo sát, tính liên hệ, kết thúc nêu ý nghĩa hoặc hành động.
Ví dụ: Miêu tả thời tiết – Trời âm u, mây đen ,gió thổi mạnh, trời sắp mưa.
* Kể chuyện theo chủ đề: Tôi chủ yếu rèn cho trẻ truyền đạt lại những sự kiện sảy ra trong một thời gian nhất định của nhân vật nào đó.
Ví dụ: Truyện: Dê con nhanh trí – Con chó sói giả làm dê mẹ lúc dê mẹ đi vắng, nó giả giọng dê mẹ, nó nhúng chân vào thùng bột cho chân trắng giống dê mẹ. Nhưng chó sói vẫn bị dê con phát hiện ra và đuổi sói đi.
Thời gian đầu trẻ kể theo mẫu của cô, sau đó có thể trẻ nhận thức chậm kể theo mẫu của cô. Để tập cho trẻ kể cô có thể cầm con rối để kể từng câu một, sau đó đặt câu hỏi để trẻ kể về con rối của trẻ
Khi trẻ kể tôi thường nhắc trẻ: Trẻ phải đứng quay mặt về phía các bạn. Giọng kể rõ ràng, tốc độ hợp lí, tư thế tự nhiên thoải mái. Khi trẻ kể tác phong không đúng kể sai, phát âm ngọng… cô nên để trẻ kể song rồi mới sửa, nhận xét nhưng không nên dừng lại quá lâu. Nếu trẻ quên hoặc không nói, cô đặt câu hỏi gợi ý giúp trẻ. Sau khi trẻ kể, cô nhận xét đánh giá chuyện kể của từng trẻ ngay, không nên để cuối giờ học.
* Dạy trẻ kể chuyện theo trí nhớ:
-Mục đích: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc, ghi rõ mẫu câu cần luyện.
– Chọn đề tài phù hợp với nhận thức và kinh nghiệm của trẻ. Để trẻ ghi nhớ một cách có chủ đích chuẩn bị kể được tốt, tôi thường giao nhiệm vụ trước cho trẻ. Ví dụ: Ngày mai là ngày cuối tuần, các con ở nhà làm gì? Các con chú ý nhớ những việc đã làm, hoặc được đi chơi thế nào kể lại cho cô và bạn nghe nhé.
Trước tiên tôi chọn những đề tài chung (hoạt động mà cả lớp cùng được tham gia) Khi trẻ đã quen với cách kể, cô cho trẻ kể theo kinh nghiệm của trẻ.
* Dạy trẻ kể chuyện sáng tạo;
– Yêu cầu: Truyện kể mạch lạc, logic, các câu nói đúng ngữ pháp, thể hiện rõ ngôn ngữ đàm thoại hay độc thoại trong khi kể.
Các dạng kể chuyện sáng tạo: kể nốt chuyện, kể theo đề tài và dàn ý cho trước, kể theo chủ đề tự cho, kể theo mô hình.
– Chuẩn bị: Cô kể một đoạn chuyện rồi yêu cầu trẻ suy nghĩ kết thúc câu chuyện ( giao nhiệm vụ). Cô cho trẻ xem mô hình trước một ngày, đàm thoại gợi ý trước đề tài để trẻ suy nghĩ.
– Tổ chức sinh động để phát huy trí tưởng tượng của trẻ, giúp trẻ xây dựng câu chuyện một cách hoàn chỉnh theo ý của từng cá nhân.
– Một số cháu đã kể được khi sử dụng mô hình, sách tranh, con rối, tranh ảnh sưu tầm… sau mỗi lần kể tôi chú ý nhận xét kĩ lời kể của trẻ và tao mọi cơ hội cho trẻ được kể chuyện sáng tạo.
Biện pháp 3: Tổ chức ôn luyện mọi lúc, mọi nơi, ôn luyện thông qua lễ hội:
Ôn luyện mọi lúc, mọi nơi cũng là một biện pháp giúp ổn định trẻ.
Tôi thường xuyên tổ chức ôn tập cho trẻ vào các hoạt động trong ngày, trong giờ hoạt động chính cô tích hợp cho trẻ đọc thơ hoặc vè trong phần gây hứng thú đầu giờ, trong giờ hoạt động ngoài trời cô tích hợp đồng dao vào các trò chơi vận động.
Ví dụ: Trò chơi “Mèo đuổi chuột” lồng ghép bài đồng dao “Mèo đuổi chuột”, Vào các buổi chiều trong tuần trước khi tổ chức các hoạt động chiều tôi thường cho trẻ đọc ôn lại các bài thơ, vè, đồng giao, câu chuyện trước, tổ chức hoạt động chiều sau.
Thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội tổ chức hoạt động kể chuyện đóng kịch, đọc thơ… theo một chương trình biểu diễn văn nghệ mà 100% trẻ được tham gia nhằm giúp trẻ hứng thú với bộ môn làm quen văn học.
Ví dụ: lễ hội 20/11chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam. cho trẻ kể chuyện sáng tạo về cô giáo của mình.
Biện pháp 4: Tổ chức các trò chơi dân gian và các trò chơi khác để luyện phát âm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Như chúng ta được biết, trẻ em không chỉ được chăm sóc, được học tập mà quan trọng nhất là trẻ em cần phải được vui chơi. Đặc biệt là các trò chơi dân gian. Qua những bài ca dao, đồng dao nhằm giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ. Các trò chơi dân gian đều gắn với các bài đồng dao, ca dao có tác dụng bổ sung kiến thức, phát triển ngôn ngữ và phát triển thẩm mĩ cho trẻ. Đồng dao có vai trò rất lớn trong các trò chơi dân gian bởi vì thiếu nó thì trò chơi sẽ tẻ nhạt, không sinh động. Lời các bài đồng dao, ca dao đã đóng góp vai trò rất quan trọng trong việc luyện phát âm phát triển ngôn ngữ cho trẻ, cung cấp vốn từ cho trẻ. Đây chính là cơ sở để tôi sưu tầm các trò chơi dân gian có kèm theo các bài đồng dao để trẻ tham gia chơi. Từ đó luyện phát âm cho trẻ qua đọc đồng dao, ca dao.
Ví dụ: Trò chơi bịt mắt bắt dê
Một bầy trẻ nhỏ.
Bịt mắt bắt dê
Ngã kềnh 4 vó
Mọi người cười rộ
Dê chạy thật nhanh
Tóm ngay một chú.
Cách chơi: Cho cháu đứng vòng tròn làm những chú dê kêu “be be”. Sau đó, đọc bài đồng dao. Một cháu bịt mắt bắt dê, cháu đi bắt dê sẽ lắng nghe tiếng dê đọc bài đồng dao để tìm và bắt một bạn. Bạn bị bắt sẽ thay bạn làm người bắt dê.
Hay trò chơi: Mèo bắt chuột.
Cháu đứng vòng tròn nắm tay giơ cao, một bạn làm chuột, một bạn làm mèo. Các cháu đứng vòng tròn cùng đọc bài đồng dao mèo đuổi chuột. Các bạn làm chuột và mèo khi nghe hiệu lệnh của cô thì mèo phải đuổi chuột, chuột phải chạy vào khe trống của các bạn để trốn mèo, còn mèo cũng chạy vào đúng các khe trống đó. Nếu mèo bắt được chuột thì bạn làm chuột sẽ đổi vai cho mèo và trò chơi tiếp tục.
Bài Mèo đuổi Chuột:
Mời bạn lại đây
Tay nắm chặt tay
Đứng thành vòng rộng
Chuột luồn lổ nhỏ
Chạy thẳng chạy mau
Mèo đuổi theo sau
Trốn đâu cho thoát
Thế rồi chú chuột
Lại sắm vai Mèo
Cắm cổ chạy theo
Chú Mèo hóa Chuột.
Ngoài ra tôi còn tổ chức cho trẻ chơi nhiều trò chơi dân gian như: dệt vải, rềnh rềnh ràng ràng, đồng dao hỏi tuổi, rồng rắn lên mây, chi chi chành chành. Qua các trò chơi dân gian trẻ tham gia chơi rất hứng thú và khả năng phát âm cũng có chuyển biến tốt, trẻ mạnh dạn hơn khi đọc đồng dao, tham gia tích cực vào hoạt động cùng các bạn.
Kho tàng trò chơi dân gian vô cùng phong phú, đa dạng. Tôi cân nhắc lựa chọn những trò chơi đơn giản, dễ nhớ, dễ tham gia chơi và trò chơi có tính tập thể để lôi cuốn trẻ tham gia hứng thú vào trò chơi.
Trò chơi là hình thức chuyển tiếp giữa các lần kể hay thay cho phần củng cố câu chuyện mà các tiết dạy thường áp dụng. Tôi cho trẻ chơi một số trò chơi ở dạng động như trò chơi: “Mèo và chim sẻ”, “gà gáy vịt kêu”, “trời nắng trời mưa”, “cáo và thỏ.
Việc tích hợp các môn học, các trò chơi vào cho trẻ kể chuyện đọc thơ nhằm cung cấp thêm một số kiến thức bổ trợ cho câu chuyện, bài thơ sinh động hơn. Ở lứa tuổi này tâm lý của trẻ thường dễ nhớ mau quên. Vì vậy vào giờ đón trả trẻ tôi đưa trẻ vào góc “bé chăm đọc sách” để hướng dẫn trẻ kiến thức mới và củng cố kiến thức cũ. Đây là hình thức cho trẻ trải nghiệm những gì mình có sẵn và học tập ở cô và bạn, trẻ cảm thấy thoải mái và tự tin hơn.
Việc tích hợp các môn học khác tôi phải linh hoạt, lựa chọn nội dung sao cho phù hợp với nội dung câu chuyện, giúp trẻ tham gia vào hoạt động một cách tích cực nhất và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ nhất.
Biện pháp 5: Tổ chức tiết học nhẹ nhàng linh hoạt.
Để thu hút sự chú ý, gây hứng thú của trẻ tôi đã sử dụng công nghệ thông tin, mô hình rối, tranh minh họa vào một số bài dạy cụ thể sau :
Ví dụ : Dạy câu chuyện : “ Cây thìa là ”
Chủ đề : Thế giới thực vật
Chủ đề nhánh : Một số loại cây .
Với bài dạy này tôi đã sử dụng phần mềm PoWerPoint để soạn giáo án điện tử phục vụ một số hoạt động trong tiết dạy.
Ví dụ: phần gây hứng thú cho trẻ, tôi chuẩn bị một số hình ảnh trên máy chiếu về cây, rau , quả. Tôi đọc câu đố, cho trẻ đoán và chiếu hình ảnh minh họa lên để trẻ kiểm tra câu trả lời của mình.
– Tôi kể chuyện lần 2 và giảng nội dung theo tranh minh họa trên máy chiếu.
– Tôi sử dụng rối trong kể chuyện lần 3 cho trẻ nghe và dạy trẻ kể chuyện cùng cô đã gây được sự hấp dẫn, tập chung chú ý cho trẻ.
Trước khi vào tiết dạy tôi còn chuẩn bị máy tính xách tay đã cài đặt phần mềm PoWerPoint, máy chiếu, phông chiếu là những đồ dùng cần thiết khi giảng dạy .
Vào giờ học để thu hút sự chú ý của trẻ tôi gọi trẻ đến bên cô và hỏi :
– Các con thấy thời tiết hôm nay như thế nào ?
– Với thời tiết đẹp thế này các con có dự định đi đâu ? ( trẻ nêu ý định)
– Bây giờ cô có một đề nghị , cô con mình sẽ cùng đi chơi , cô sẽ đưa chúng mình đến thăm “vườn cây xanh” cô – các con cùng khám phá những điều thú vị trong khu vườn nhé!.
Sau đó tôi sẽ nhẹ nhàng đọc câu đố, trẻ đoán tên cây, quả… và chiếu cho trẻ xem hình ảnh về các loại cây trên máy chiếu và trò chuyện cùng cô . Tiếp đó cô nhẹ nhàng dẫn dắt trẻ vào câu truyện và cô kể diễn cảm cho trẻ nghe câu tryện bằng lời của cô sau đó cô hướng trẻ nhìn lên màn hình và giơí thiệu cho trẻ được quan sát những hình ảnh về câu tryện mà cô đã chuẩn bị sẵn trên máy, trẻ cùng cô đàm thoại nội dung câu truyện trên máy chiếu và lắng nghe cô kể câu chuyện đó trên băng đĩa .
Với việc sử dụng công nghệ thông tin vào tiết dạy, trẻ đặc biệt có hứng thú, trước khi vào bài học, khi nhìn thấy trong lớp có máy vi tính, có máy chiếu, tất cả trẻ đều ngạc nhiên đến sửng sốt và rất hưng thú, đến khi vào tiết học khi được xem trực tiếp các hình ảnh động âm thanh, bài hát trên màn hình trẻ vô cùng thích thú. Tiết học trôi qua một cách nhẹ nhàng đầy lôi cuốn trẻ từ đầu đến cuối. Đến khi hết tiết học trẻ còn nói “ học tiếp đi cô”
Với bài dạy này trẻ được quan sát kỹ các hình ảnh các loại cây một cách sống động và trung thực, trẻ được quan sát kỹ nội dung tranh truyện trên máy chiếu thay vì quyển tranh truyện bé ở ngoài . Trẻ được xem và khắc sâu tính cách nhân vật hiền lành tốt bụng, tham lam độc ác qua cử chỉ, nét mặt của từng nhân vật, qua đó trẻ tập trung cao độ vào tiết học, hăng hái phát biểu xây dựng bài, giờ học sôi nổi .
Từ đó phát huy được tính tích cực, phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Giờ học đạt kết quả từ 90-95%.
Ví dụ : Thơ “Gấu qua cầu”
Chủ đề : Giao thông
Với bài dạy này tôi chuẩn bị :
+ Mũ gấu, mũ nhái bén, một cây cầu.
Mở đầu bài dạy tôi cho trẻ đến bên cô, cô đọc câu đố về đèn hiệu giao thông :
‘‘ Đèn mắt đỏ,mắt xanh
Suốt đêm không ngủ
Đứng canh bên đường’’ ( đèn hiệu giao thông)
cùng trò chuyện về chủ đề giao thông sau đó cho trẻ xem hình ảnh hai con gấu đang đi qua cầu trên máy chiếu và đàm thoại cùng trẻ .
Có những con vật gì ?
Chúng đang làm gì ?
Những con vật này sống ở đâu ?
Sau đó cô đọc cho các cháu nghe .
Thay vì trước đây tôi chỉ có thể sử dụng tranh ảnh hoặc những con vật bằng rối rẹt để giới thiệu với trẻ nên bài dạy chưa thực sự hấp dẫn, trẻ không hứng thú .Thì nay với công nghệ thông tin tôi có thể dễ dàng tìm được hình ảnh những con vật sống trong rừng ở trên mạng thật dễ dàng .
Cũng với những hình thức trên tôi giới thiệu tranh, đọc thơ, giảng nội dung theo tranh trên máy chiếu.
Tiếp theo tôi cho trẻ đọc thơ diễn cảm nhiều lần với nhiều hình thức khác nhau, khi trẻ đọc thơ đã hay và diễn cảm tôi tiến hành cho trẻ đóng kịch với vở kịch “Gấu qua cầu” tôi đã biên đạo sẵn.
Chính điều đó kích thích sự hứng thú trẻ vào tiết học, trẻ nào cũng chăm chú theo dõi, khi kết thúc vở kịch trẻ vui mừng vỗ tay khen thưởng bạn. Qua tiết học trẻ không chỉ được làm quen với một số luật lệ đi đường đơn giản, mà còn được học chữ viết, được phát triển ngôn ngữ tích cực, trẻ đựơc học một cách thoải mái, nhẹ nhàng , vui chơi là chính, nhưng trong chơi có học . Giờ học đạt kết quả cao.
* Chú ý rèn nề nếp, rèn kỹ năng và kích thích sự sáng tạo của trẻ:
– Cô hướng dẫn trẻ biết chia nhóm kể chuyện, tạo cho trẻ cảm giác tự tin, mạnh dạn, nhanh nhẹn và linh hoạt qua việc trẻ biểu diễn hoặc đóng kịch.
– Rèn kỹ năng nhập vai nhân vật, bắt chước giọng điệu, thái độ, để thể hiện tính cách nhân vật trong chuyện từ đó khuyến khích trẻ thể hiện sự sáng tạo của mình trong khi biểu diễn hoặc đóng kịch.
– Cô tổ chức tiết dạy mang tính chất gợi mở, tạo điều kiện cho trẻ tự thỏa thuận và tự chọn vai kể theo ý thích về sự sáng tạo của trẻ. Có thể dùng lời để khuyến khích, động viên trẻ thực hiện các vai diễn sáng tạo.
– Rèn trẻ một số nề nếp, thói quen văn minh trong giờ học, biết ngoan ngoãn, chú ý, lắng nghe cô và bạn kể chuyện, đọc thơ, đóng kịch… Hăng hái tham gia các hoạt động cùng cô và bạn.
4.5. Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến (đã được áp dụng, kể cả áp dụng thử trong điều kiện kinh tế – kỹ thuật tại cơ sở; khả năng áp dụng cho những đối tượng, cơ quan, tổ chức khác):
Những giải pháp mà bản thân thực hiện điều dựa vào tình hình cơ sở vật chất, khả năng tiếp thu của các cháu, sự đồng thuận phối hợp cùng giáo dục của các bậc phụ huynh tại đơn vị Trường MN Đại Hòa.
Sáng kiến này có khả năng áp dụng cho những đơn vị giáo dục mầm non trên địa bàn huyện Đại Lộc và tỉnh Quảng Nam
5- Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không
6- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Qua việc thực hiện các biện pháp giáo dục trẻ học tốt môn làm quen văn học tôi thu được kết quả sau:
Trong quá trình thực hiện tiết truyện kể,đọc thơ ở lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi
100% các cháu rất thích nghe cô kể chuyện, đọc thơ, 90-98% các cháu hăng hái phát biểu xây dựng bài , kể lại được chuyện và tham gia đóng kịch theo nội dung truyện
Qua đây tôi thấy việc gây hứng thú cho trẻ khi kể chuyện, đọc thơ là rất cần thiết, vì thế người giáo viên cần làm tốt những việc sau:
– Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn của chính bản thân mình,coi ngôn ngữ là phương tiện giáo dục chủ đạo.
– Giáo viên cần sưu tầm tranh ảnh có nội dung phù hợp, trao đổi kiến thức tự học qua sách báo, internet, qua đồng nghiệp.
– Phối hợp với phụ huynh để động viên giáo dục trẻ thực hiện tốt yêu cầu cần đạt phù hợp lứa tuổi trẻ.
Qua khảo sát cuối năm trẻ lớp tôi đã đạt được kết quả như sau.
– 95% vốn từ của trẻ phát triển rõ rệt. Trẻ nói rõ ràng, mạch lạc hơn, nói nhiều câu có nghĩa đầy đủ. Trẻ đã phân biệt được ý nghĩa một số từ.
– 85% Kinh nghiệm sống của trẻ đã phong phú hẳn lên, trẻ hứng thú tham gia học, phát biểu, kể chuyện và đóng kịch.
– 80% Trẻ mới, nhận thức chậm đã mạnh dạn tham gia vào các hoạt động: đóng kịch, kể chuyện.
– 100% Trẻ phân biết được sự đúng, sai, thiện , ác, chăm chỉ, lười biếng và có tình cảm , thái độ phù hợp qua câu truyện mình học .
– 90%Trẻ phát âm rõ ràng, nói năng mạch lạc,có khả năng giao tiếp có văn hóa.
– 100% Phụ huynh ủng hộ cho trẻ mang thêm đồ dùng, đồ chơi, tranh ảnh sách báo sưu tầm, truyện tranh phù hợp với chủ đề, góp phần phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
* Về phụ huynh:
Phụ huynh rất quan tâm tới việc phát triển ngôn ngữ của con em, thường xuyên trao đổi tình hình học tập của trẻ ở lớp để về dạy con học bảng chữ cái, luyện phát âm và rèn thêm như viết đúng cách, đúng dòng kẻ khi trẻ ở nhà.
* Về cô: Tôi đã tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm để tạo ra nhiều loại rối phong phú, đa dạng, sử dụng có hiệu quả trong việc dạy trẻ kể chuyện đọc thơ.
Tôi thấy mình đã nâng cao được phong cách nghệ thuật lên lớp, giọng kể được trau dồi diễn cảm, thu hút trẻ hứng thú tham gia vào tiết học.
Tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm qua cách dạy trẻ kể chuyện đọc thơ, sưu tầm được nhiều truyện tranh, học thuộc nhiều truyện ngoài chương trình, sưu tầm nhiều bài thơ hay để cung cấp cho trẻ.
7- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (lợi ích kinh tế, xã hội so với trường hợp không áp dụng giải pháp đó ; hoặc so với những giải pháp tương tự đã biết ở cơ sở hoặc số tiền làm lợi): Cô Nguyễn Thị Hồng ( Tổ trưởng tổ lớn trường MN Đại Hòa), cô Nguyễn Thị Diệu( Giáo viên).
8- Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):
TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác (hoặc nơi thường trú) Chức danh Trình độ chuyên môn Nội dung công việc hỗ trợ
1 Võ Thị Nữ 8/4/1981 Trường MN Đại Hòa Tổ trưởng tổ lớn Đại học Hỗ trợ trong việc giáo dục trẻ học tốt môn LQVH
2 Phan Thị Kiều Linh 10/5/1985 Trường MN Đại Hòa Giáo viên Đại học Hỗ trợ trong việc giáo dục trẻ học tốt môn LQVH
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Đại Hòa, ngày 09 tháng 11 năm 2022.

Cảm nhận của Phụ huynh

Chị Nguyễn Thị Hoài Thu – Phụ huynh bé: Nguyễn Huỳnh Linh Đan – Lớp lớn

Con tôi rất nhút nhát, do công việc bận rộn gia đình cũng không có thời gian để tạo điều kiện cho bé thường xuyên tiếp xúc với môi trường bên ngoài nên bé ngại giao tiếp hơn. Do đó khoảng thời gian đầu cho bé đi học là quãng thời gian khó khăn cho cả bé và gia đình. Tôi đã từng khóc khi thấy bé đứng thút thít do không thuộc những động tác thể dục buổi sáng… Thời gian trôi thật mau, giờ bé đã nên người và tự tin hơn rất nhiều, bé lại có thể phát huy được năng khiếu múa hát. Tất cả là nhờ sự yêu thương, gần gũi của các cô đã làm cho bé tìm được niềm vui khi đến lớp.